Trong ngày hôm nay truyenthonghla.com sẽ trình bày về vấn đề Chuyên Đề Văn Học Lãng Mạn Việt Nam để các bạn có thể hiểu rõ bản chất của vấn đề cũng như là giải đáp được được thắc mắc về chủ đề Chuyên Đề Văn Học Lãng Mạn Việt Nam mà bạn đang quan … Chuyên Đề Văn Học Lãng Mạn Việt Nam Read More »
Video đầy đủ Các tác phẩm văn học lãng mạn việt nam. Văn học lãng mạn trước hết là sự trở về với tự nhiên và tình cảm. Thế giới nội tâm, tình cảm của con người với nhiều trạng thái khác nhau chính là đối tượng mới của sáng tạo văn học. Chủ nghĩa lãng mạn
Thực hiện Chương trình công tác Đội và phong trào Thiếu nhi năm học 2018– 2019;Nhằm nêu cao tinh thần học tập, tìm hiểu, giáo dục truyền thống yêu nước. Qua đó giúp học sinh có thêm những kiến thức bổ ích về lịch sử dân tộc. Thông qua cuộc hành trình về nguồn và hoạt động trải nghiệm nhằm giáo dục cho
dịch văn học Việt Nam được các nhà xuất bản khác nhau của Pháp đã làm thay đổi cách nhìn về một đất nước đã trải qua 30 năm chiến tranh. Ở Mỹ, văn học Việt Nam được biết đến qua tác phẩm của nhiều nhà văn, nhà thơ quen thuộc.
Văn học tập lãng mạn, quan sát ở góc nhìn tích rất đã đem đến cho nền văn học việt nam sự cải tiến mới mẻ về hình thức và nội dung, làm cho tiền đề cho việc phát triền của văn học sau này. Chỉ trường thọ một thời hạn ngắn cơ mà đã để lại đến văn học
Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. I. Chủ nghĩa lãng mạn1. Lịch sử hình thành2. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạnII. Trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam Chủ nghĩa lãng mạn và trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam I. Chủ nghĩa lãng mạn 1. Lịch sử hình thành Chủ nghĩa lãng mạn là một khái niệm mang tính lịch sử. Từ rất lâu nó đã được sử dụng với tư cách là một trào lưu tư tưởng, thủ pháp biểu hiện và loại hình văn học. Nhưng chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là một trào lưu thì phải chờ tới cuối thế kỉ 18 đến những năm 30, 40 của thế kỉ 19, đầu tiên hình thành ở Đức, sau đó lan sang Anh, Pháp, Nga… nhanh chóng phát triển thành phong trào văn học rộng khắp châu Âu, tạo ra rất nhiều tác giả, tác phẩm có ảnh hưởng lớn. Chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là loại hình văn học chủ yếu chỉ chủ nghĩa lãng mạn ở thời kì này. Thời kì hưng thịnh nhất của chủ nghĩa lãng mạn là vào trước sau cuộc đại cách mạng tư sản Pháp, tức là vào khoảng những năm 90 của thế kỉ 18 đến những năm 30 của thế kỉ 19. Sự phát triển rực rỡ của chủ nghĩa lãng mạn trong thời kì này hiển nhiên là do điều kiện chính trị xã hội lúc đó quyết định. Năm 1789 giai cấp tư sản Pháp lật đổ chính quyền phong kiến chuyên chế, lập nên sự thống trị của giai cấp tư sản, điều này làm dâng lên phong trào cách mạng dân chủ tư sản và phong trào giải phóng dân tộc ở khắp châu Âu. Đi liền với phong trào này là sự bấp bênh, hỗn loạn của hiện thực xã hội, lí tưởng của chủ nghĩa Khai sáng bị hủy diệt, sự thất vọng ăn sâu lan rộng trong xã hội. Cùng với nó, mong ước về một xã hội lí tưởng chân chính cũng trở thành tâm lí xã hội phổ biến, những điều này dẫn đến sự xuất hiện của chủ nghĩa lãng mạn. Ngoài ra, mặc dù lí luận chủ nghĩa xã hội không tưởng với đại biểu là Xanh Ximong và Owen tuy không phải là lí luận khoa học, hoàn thiện nhưng tư tưởng xã hội tiêu biểu của nó là mong ước không tưởng về một xã hội giải phóng chân chính, cũng trở thành cơ sở của chủ nghĩa lãng mạn. Sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn cũng có cội nguồn từ kinh nghiệm lịch sử và đấu tranh trong bản thân văn học. Văn học cảm thương chủ nghĩa Anh thế kỉ 18, yêu cầu giải phóng cá tính, chủ trương tự do tình cảm, quay trở lại tự nhiên thuần phác của Rousseau, nhấn mạnh cá tính, sắc thái tình cảm mãnh liệt trong phong trào cách tân với đại biểu là Goethe, nghiên cứu về tính bi kịch, ngợi ca, vẻ đẹp đăng đối của Kant, Schiele; sự thưởng thức nghệ thuật bắt đầu bằng việc đặt nghệ thuật trong dòng phát triển lịch sử của Herder, Hegel… Tất cả đã kích hoạt tư tưởng của con người, làm cho cảm nhận, lí giải của con người đối với nghệ thuật trở nên sâu sắc hơn. Từ đó yêu cầu nghệ thuật biểu hiện tinh thần vĩ đại và tư tưởng tình cảm một cách sâu sắc…Tất cả những điều này đều có vai trò quan trọng đối với sự hình thành chủ nghĩa lãng mạn. Ngoài ra, chủ nghĩa cổ điển trước đó có khuynh hướng giáo điều lí tính khô cứng, tạo thành những giới luật hà khắc đối với tự do biểu hiện tư tưởng của nhà văn, dẫn đến sự phản đối mãnh mẽ của một số nhà văn, điều này cũng thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn. Từ lãng mạn romanticism, romantisme xuất phát từ tình ca romances của thời trung cổ, để chỉ những bài thơ dài nói về những chàng kỵ sĩ, những anh hùng, về những vùng đất xa xôi và những cuộc tình lỡ làng… hoặc những bài ca mà người hát rong trabadour thường sử dụng trong ca diễn của mình. Nó xuất hiện sớm nhất ở Đức. Vậy lãng mạn là gì? Biélinski trong bài Văn học Nga, năm 1841, định nghĩa “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”. Có thể nhìn qua những nét chính thể hiện trong những tác phẩm lãng mạn để nhận ra rằng chủ nghĩa lãng mạn là thứ nghệ thuật ở đó nổi trội chất trữ tình. Đối lập với hiện thực là lãng mạn, đối lập với tự sự là trữ tình. Trữ tình là kết quả của việc biểu hiện cảm xúc, tâm trạng chủ quan của con người, do phản ánh ước mơ và khát vọng của con người nên thường vươn lên trên thực tại. Hai phạm trù nghệ thuật này tuy khác nhau nhưng thường đi đôi với nhau. Trữ tình chính là sự mở rộng chủ nghĩa cá nhân, hệ tại ở những hiện tượng cảm tính như tình cảm, cảm xúc về tình yêu, hi vọng, tuyệt vọng, hận thù, thiện cảm, ưu phiền… Georges Duhamel nhận xét “Phát xuất từ tâm hồn cá nhân, thơ trữ tình tỏa ra khắp thế giới và làm nó thay hình đổi dạng. Trữ tình không chỉ là đặc tính của một loại thơ, đối với tính nhạy cảm của con người hiện đại, nó là thực chất, là điều kiện cần và đủ của thơ ca”. Nói như V. Hugo, lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn chương. Chính vì sự đòi hỏi tự do mà phong trào lãng mạn đề cao cá nhân, phá bỏ những ràng buộc, qui luật chặt chẽ trong nghệ thuật, thoát khỏi những khuôn mẫu câu thúc. Bút pháp phóng khoáng, vần điệu đa dạng, từ ngữ được chọn lựa tùy theo mức cảm hứng, hành xử theo con tim dễ nhạy cảm và đam mê với giọng điệu thiết tha, đôi khi đạt đến tính nhân bản sâu sắc… 2. Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn Đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn là tinh thần hướng về lí tưởng. Rất khác so với tinh thần chú trọng hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật, trung thành với hiện thực của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn luôn hướng về và truy tìm lí tưởng với tinh thần vượt lên trên hiện thực, dùng lí tưởng chủ quan thay thế hiện thực khách quan, dốc toàn lực để biểu hiện một viễn cảnh cuộc sống mà con người nên có. Schiller nói sáng tác của mình là “lấy lí tưởng đẹp đẽ để thay thế hiện thực thiếu thốn” Schiller bình truyện. Nxb Nhà văn, 1955, tr55. George Sand nói sáng tác của mình là “cảm thấy tất yếu phải dựa theo hi vọng của tôi đối với nhân loại, dựa vào cái mà tôi tin là nhân loại nên có để viết về nó” George Brandes Nhà văn Pháp bình truyện. Nxb Phụ vụ văn hóa quốc tế, 1951, tr2. Nhà tiểu thuyết người Đức Jean Paul nói “Nếu như nói thơ là lời dự đoán, thì thơ lãng mạn chủ nghĩa chính là dự cảm tương lai, vĩ đại hơn sự bao dung của thế gian con người. Hoa của chủ nghĩa lãng mạn đã từng trôi dạt quanh chúng ta, giống như trước khi một đại lục mới được tìm thấy, giống như một loại hạt mà tất cả chúng ta chưa từng nhìn thấy sớm được nước biển đưa từ châu Mĩ đến bờ biển Na Uy” Jean Paul Nhập môn mĩ học. Xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc,1981, tr354. Chủ nghĩa lãng mạn không truy tìm chân thực cuộc sống, chân thực chi tiết, mà dốc toàn lực biểu hiện lí tưởng. Như Michael trong tác phẩm Nữ hoàng Mab đã miêu tả một thế giới tuyệt đẹp với sự hòa thuận, thân ái, bình đẳng…, điều mà tác giả muốn biểu hiện chính là một thế giới lí tưởng. Trên một ý nghĩa nào đó, chủ nghĩa lãng mạn phù hợp hơn với bản chất của văn học, thỏa mãn hơn nhu cầu tranh đấu tự do, hướng tới hạnh phúc, truy tìm lí tưởng của con người. Vì hướng tới biểu hiện hiện thực xã hội lí tưởng nên hình tượng nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn cũng là hình tượng nhân vật lí tưởng. Ví dụ như Quasimodo lương thiện, cao thượng dưới ngòi bút của Jean Valjean vì lương tâm nhân tính mà bao lần không quản hiểm nguy cứu người, bao lần sáng tạo nên kì tích biến nguy thành an; Tôn Ngộ Không dưới ngòi bút của Ngô Thừa Ân có thể lên trời xuống biển, nhìn thấu ma quỷ, đối đầu với thần, truy đuổi yêu tinh, hô mưa gọi gió, làm theo ý mình, thượng đế long vương không biết phải làm như thế nào… Tất cả đều là những hình tượng nhân vật lí tưởng. Van Tieghem nói về hình tượng nhân vật lí tưởng của chủ nghĩa lãng mạn như sau “không nắm bắt tình huống nhiều hơn, đem so sánh loại hình tượng văn học này với hình tượng văn học xưa kia và đương thời trên vũ đài văn học là không chính xác…. Nhân vật của chủ nghĩa lãng mạn và những điều nó nói là một điển phạm nhưng không như nói là một điển hình; nó hướng tới thức dậy sự tán thành, hứng thú của độc giả chứ không phải là đưa ra đối tượng cần mô phỏng” Lucien Levy-Bruhl Lịch sử văn học Pháp thế kỉ 19. Nxb Nhân dân Thượng Hải, 1997, tr 26. Cuộc sống lí tưởng mà chủ nghĩa lãng mạn hướng đến, truy tìm và nhân vật lí tưởng trong hiện thực cuộc sống đương thời là không tồn tại, nó đều xuất phát từ tâm hồn chủ quan của nhà văn. Bielinxki đã nói “Trên ý nghĩa bản chất nhất, hẹp nhất, chủ nghĩa lãng mạn chính là thế giới nội tâm chủ quan của con người, là cuộc sống bí mật của tâm hồn anh ta. Trong trái tim và tâm lí con người tiềm ẩn ngọn nguồn bí mật của chủ nghĩa lãng mạn” Bielinxki bàn về văn học. Nxb Văn nghệ mới 1958, tr153. Marilyn Butler – nhà lịch sử văn học người Anh nói “nghệ thuật nhìn từ trường phái lãng mạn chủ nghĩa là một ngọn đèn, hình tượng mà nó phát sáng không phải có nguồn gốc từ thế giới mà có nguồn gốc từ nhà thơ. Nghệ thuật trở thành nghệ thuật của chủ quan phi khác quan, xuất phát từ cảm ứng trực giác chứ không phải là từ quy hoạch lí tính” Marilyn Butler Trường phái lãng mạn, kẻ phản nghịch và phái phản động. Nxb Nxb Giáo dục Liêu Ninh, 1958, tr153. Người mở đầu cho thơ ca trường phái hiện đại Pháp Baudelare nói “Chủ nghĩa lãng mạn vừa không phải là đề tài tuyển chọn vừa không phải là chân thực chuẩn xác mà là phương thức cảm nhận”. “Họ tìm kiếm ở bên ngoài, nhưng thực chất chỉ có ở trong mới có thể tìm kiếm được” Sharon 1846. xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc, 1981, tr184. Vì thế, giống như Chu Quang Tiềm chỉ ra “cái nổi bật nhất, đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa lãng mạn là tính chủ quan” Lịch sử mĩ học phương Tây. Quyển hạ, Nxb Văn học nhân dân, 1964, tr 727. Chủ nghĩa lãng mạn mang sắc thái chủ quan sâu sắc, tập trung vào lí tưởng của chủ thể, chú trọng truyền đạt cảm nhận chủ quan, biểu hiện tâm hồn chủ quan, thể hiện tình cảm chủ quan của cá nhân. Nhà viết lịch sử văn học người Pháp Ranson nói “Chân lí phổ biến về trật tự lí tính và trí tuệ của tài năng suy lí, suy tư sâu sắc là hai thứ mà chủ nghĩa lãng mạn không quan tâm. Tâm lí học và khoa học, nghệ thuật suy sét, nghệ thuật suy lí, phương pháp chính xác, logic chặt chẽ đều không phải là cái mà chủ nghĩa lãng mạn quan tâm” Ranson Lịch sử văn học Pháp. Xem Nhà văn cổ điển Âu Mĩ bàn về chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa lãng mạn. tập 2, Nxb KHXH Trung Quốc, 1981, tr240. Bielinxki khi bàn về Cường đạo của Schiller đã chỉ ra Cường đạo giống như “tụng ca thô kệch về ngọn lửa dung nham phun ra từ tâm hồn đầy sinh lực của thanh niên” “trong câu nói này không phải là nhân vật mà là tác giả; trong toàn bộ tác phẩm không hề có sự chân thực của cuộc sống, nhưng lại có sự chân thực của cảm nhận, không có hiện thực, không có kịch nhưng lại có thơ vô tận, tình thế là không có thật, tình tiết là không tự nhiên, nhưng tình cảm là chân thực, tư tưởng là sâu sắc; tóm lại, vấn đề nằm ở chúng ta tất yếu không coi Cường đạo của Schiller là kịch, là sự biểu hiện cuộc sống, mà là thơ trữ tình trường thiên mang hình thức kịch, là thơ trường thiên hừng hực, sục sôi” Tuyển tập Bielinxki, tập 1, Nxb Dịch văn Thượng Hải, 1979, tr156-157. Vì nhấn mạnh tính chủ quan nên chủ nghĩa lãng mạn khi miêu tả đời sống nội tâm của nhân vật thường vượt lên trên sự phản ánh thế giới khách quan, sự dồi dào tình cảm trở thành hạt nhân, chủ thể của một tác phẩm, sự kiện, nhân vật và hành động nhân vật, ngôn ngữ và kết cấu tác phẩm… đều có thể tổ chức, sắp xếp vì sự biểu hiện tình cảm, tình điệu cảm thương, sầu muộn, kích động, vội vã thậm chí bao phủ toàn bộ câu chữ của tác phẩm. Hết sức ca ngợi đại tự nhiên cũng là một đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Trong lịch sử phát triển, cảm tình của con người đối với tự nhiên là sản phẩm của thời kì văn minh, nó muộn hơn cảm tình đối với nghệ thuật. Văn học Hi Lạp phong phú và có giá trị, nghệ thuật Athens cũng hết sức huy hoàng, nhưng trong những tác phẩm của những dân tộc mà nghệ thuật kịch và điêu khắc đạt đến đỉnh cao thì cảm tình đối với tự nhiên cũng không thực sự phát triển, cho nên trong sử thi Homer cũng rất ít miêu tả tự nhiên, tự nhiên rất ít đi vào kịch Hi Lạp. “Trời đất tự nhiên này phải đợi đến chủ nghĩa lãng mạn thế kỉ 19 mới có được sự khai thác phong phú và chi tiết. Byron, William Wordsworth, Goethe là những người đầu tiên đưa biển lớn, sông dài, núi cao vào trong tác phẩm của mình” Listowel Bình thuật lịch sử mĩ học cận đại. Nxb Dịch văn Thượng Hải, 1980, tr186. Các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa đề xuất khẩu hiệu “quay trở lại với tự nhiên”, dùng nó để thể hiện sự bi phẫn đối với việc hình thành văn hóa thành thị và văn hóa công nghiệp của xã hội tư bản chủ nghĩa và ước muốn trở về với tự nhiên thuần phác. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao cảnh sắc tráng lệ của đại tự nhiên, lấy đại tự nhiên làm đối tượng biểu hiện chủ yếu, miêu tả và ca ngợi vẻ đẹp của đại tự nhiên, núi cao hùng vĩ, biển rộng mênh mông, phong cảnh điền viên thuần phác, yên tĩnh, tình điệu riêng biệt ở đất khách quê người, tất cả đều xuất hiện dưới ngòi bút của nhà văn lãng mạn chủ nghĩa, hơn nữa, vẻ đẹp tự nhiên này đều đối chiếu rõ rệt với sự độc ác của hiện thực. Trong Just. Harold của Byron tràn ngập phong cảnh tự nhiên mềm mại ở phía nam địa trung hải, cảnh sắc rực rỡ ở Tây Ban Nha, di tích lịch sử hùng vĩ ở Hi lạp La mã, tạo nên sự khác biệt một trời một vực với hoàn cảnh đầy tội ác của chủ nghĩa tư bản. Tưởng tượng mãnh liệt, khoa trương đặc biệt là thủ pháp biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa lãng mạn. Để làm nổi bật lí tưởng và biểu hiện tình cảm chủ quan, chủ nghĩa lãng mạn cũng có nét đặc sắc trên thủ pháp biểu hiện nghệ thuật và hình thức nghệ thuật, nó vận dụng thủ pháp biểu hiện nghệ thuật khoa trương khác thường và trí tưởng tượng mãnh liệt, lấy tình tiết vượt lên hiện thực, sắc thái đậm đà, ngôn ngữ mĩ lệ, đem truyền thuyết lịch sử, cổ tích thần thoại, kì quan tự nhiên, phong cảnh ở nơi xa lạ…kết hợp lại, tổ chức nên một thế giới lí tưởng phi thường, nhân gian, tiên cảnh, thiên đường địa ngục, thần tiên ma quỷ, mưa gió sấm chớp, thảo mộc hoa lá muông thú côn trùng…đều có thể mặc sức để nhà văn lãng mạn điều khiển, bối cảnh có thể không ngừng thay đổi, không gian có thể thoải mái kéo dài. Trong Faust của Geothe, bối cảnh câu chuyện từ thư phòng chật hẹp đến thành quách sáng láng, lại đến cửa quan huy hoàng, tình tiết của nó cũng là thời gian nghiên cứu học vấn, thời gian giao kèo với quỷ, thời gian nói chuyện tình ái với cô nương thành thị, thời gian nhận được nhiều hủ bại của vương triều, thời gian đến bờ biển dự định cải tạo tự nhiên, cuối cùng là các thiên sứ cùng nâng đỡ linh hồn Faust bay lên không trung. Như vậy,văn học lãng mạn là một khuynh hướng thẩm mĩ lấy việc khẳng định cái tôi cá nhân cá thể làm nguồn cảm hứng chủ đạo. Một cái tôi không thỏa mãn với thực tại, tìm cách tự giải thoát khỏi thực tại bằng mộng tưởng và bằng đắm mình vào đời sống nội tâm tràn đầy tình cảm, cảm xúc. Giải phóng trí tưởng tượng và tình cảm, cảm xúc ra khỏi sự trói buộc của lí trí, của chủ nghĩa duy lí, là đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa lãng mạn. Nó yêu tự do, thích sự độc đáo phi thường, có hứng thú giãi bày những cảm xúc mãnh liệt, đặc biệt là nỗi buồn đau, lòng sầu xứ, tình yêu say đắm , sự ngưỡng mộ tạo hóa và thượng đế. Chủ nghĩa lãng mạn rất gần gũi với tuổi trẻ vì tuổi trẻ giàu tình cảm , dễ đắm say, đặc biệt trong tình yêu. Tuổi trẻ luôn hướng về cái mới lạ. họ thích táo bạo , độc đáo , khác thường. II. Trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam Sau ngày 17/06/1930, khi cuộc nổi dậy của Nguyễn Thái Học thất bại ở Yên Bái, Pháp đẩy mạnh việc đàn áp, khủng bố, bắt bớ, tù đày các nhà ái quốc nhằm dập tắt các cuộc khởi nghĩa từ trong trứng nước để củng cố nền đô hộ. Các phong trào tạm thời lắng xuống, các tổ chức ái quốc bị dao động mạnh buộc phải tạm ngưng các hoạt động rút vào bóng tối nhằm bảo toàn tổ chức và nhân sự. Cuộc khủng bố qui mô toàn quốc những năm 1930 đã gây một không khí hoang mang, lo sợ trong tầng lớp thanh niên và trí thức. Chỉ trong hai năm 1930 và 1931 riêng ở Bắc Kỳ, chính phủ bảo hộ Pháp đã mở 21 phiên tòa đặc biệt gọi là Hội Đồng Đề Hình xét xử tất cả 1094 vụ án chính trị, trong đó có 164 bản án tử hình, 114 khổ sai chung thân, 420 lưu đày biệt xứ. Đây là thời kỳ thoái trào của các hoạt động cách mạng chống Pháp dành độc lập cho đất nước. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 từ Pháp tràn về Đông Dương thuộc địa như một thiên tai khiến cuộc sống xã hội trở nên khó khăn. Hàng hoá rẻ mạt nhưng lại không kiếm ra tiền, các xí nghiệp kinh doanh thi nhau phá sản, sa thải nhân công. Ngân quỹ nhà nước bảo hộ thất thâu không đủ khả năng tuyển dụng thêm công chức, nạn trí thức thất nghiệp là mối lo âu chung của những người được Pháp đào tạo. Trộm cướp, thuốc phiện, bài bạc, đĩ điếm trở thành những vấn đề nan giải. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới càng tăng thêm bi quan cho bàu không khí u ám, buồn thảm vốn đang căng thẳng, ngột ngạt. Trong khung cảnh đó những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang tâm trạng tiêu cực muốn thoát ly khỏi những vấn đề bức xúc của cuộc tranh đấu dành độc lập. Họ có thái độ chán nản, xa lánh chính trị. Thái độ này được củng cố trên cơ sở mối bất hòa tuyệt vọng giữa họ và hoàn cảnh xã hội đương thời. Sự ra đời của trào lưu văn chương lãng mạn giải quyết được bế tắc, đáp ứng được nhu cầu cho giới trí thức trong bối cảnh xã hội bi quan đó. Con đường làm văn học nghệ thuật bằng chủ nghĩa lãng mạn là lốt thoát trong sạch, nơi trú ẩn tinh thần tương đối an toàn có thể gửi gấm tâm sự, và cũng là phương cách bày tỏ lòng yêu nước. Chủ nghĩa lãng mạn đề cao tự do cá nhân đã đáp ứng được khát vọng giải phóng bản ngã, khát vọng tự do yêu đương cho hạnh phúc cá nhân, cho quyền sống cá nhân. Điều này giải thích được quan điểm mỹ học nghệ thuật vị nghệ thuật của những người trong trào lưu văn chương lãng mạn thuộc giai đoạn 1932-1945 của văn học Việt Nam. Tất nhiên để có một trào lưu văn học thì bao giờ cũng cần có một hay nhiều người khởi xướng với sự tham gia tích cực của văn giới, và được đón nhận đông đảo của độc giả. Từ 1932 đến 1935 đã nổ ra hàng loạt các cuộc tranh luận văn học sôi nổi được tham gia của nhiều tờ báo và các nhà văn, nhà thơ tranh luận về thơ mới thơ cũ, tranh luận về bỏ cũ theo mới, tranh luận về hôn nhân và gia đình, tranh luận về nghệ thuật phục vụ cái gì. Các cuộc tranh luận này phản ảnh cuộc đấu tranh giữa lễ giáo phong kiến với tự do cá nhân, giữa khuôn sáo và tư tưởng gò bó với cảm xúc cá nhân được tự do bày tỏ. Hai tờ Phong Hóa và Ngày Nay do Nhất Linh và nhóm Tự Lực Văn Đoàn chủ trương là cơ quan ngôn luận cổ võ mạnh mẽ cho sự thay cũ đổi mới và là nơi qui tụ văn chương của các nhà văn, nhà thơ trong trào lưu văn học lãng mạn gồm có Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Vũ Đình Liên, Đoàn Phú Tứ. Sự thành công của trào lưu văn chương lãng mạn cũng phải kể đến các tờ Hà Nội Báo, Tiểu Thuyết Thứ Bảy, Phổ Thông Bán Nguyệt San, Tao Đàn, Thanh Nghị với sự tham gia của các tác giả như Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Phạm Huy Thông, Bích Khê, Nguyễn Tuân, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Xuân Sanh, Sự toàn thắng của phong trào thơ mới cũng là tiếng trống khải hoàn cho trào lưu văn học lãng mạn, chấm dứt hoàn toàn lối thơ văn cũ từ thời Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong trở về trước. Như vậy, trào lưu lãng mạn trong văn học Việt nam đầu thế kỷ XX có một số đặc điểm như sau + Hình thành và phát triển trong hoàn cảnh thuộc địa, nhà văn bị hạn chế về nhiều mặt tự do tư tưởng , tầm văn hóa – tri thức, điều kiện vật chất,… + Một số nhà văn nhà thơ cũng có tuyên ngôn này khác Thế Lữ, Xuân Diệu, Nhóm thơ Bình Định, Xuân thu nhã tập, Tự lực văn đoàn,.. nhưng nói chung không lí thuyết nhiều, không đẩy lên thành chủ nghĩa này, trường phái khác một cách cực đoan. + Thành tựu có tính kết tinh nhất và có giá trị thẩm mĩ lâu dài hơn cả là thơ trữ tình, truyện ngắn, một số thể kí. Nội dung tư tưởng Chủ nghĩa lãng mạn nói chung là sự thể hiện trên lĩnh vực mĩ học thái độ bất hòa bất mãn với xã hội, với thực tại. Khao khát dân chủ tự do, văn minh, tiến bộ, tỏ thái độ bất hòa bất mãn với chủ nghĩa thực dân tàn bạo, hống hách và với những tập tục phong kiến hủ bại. Vì thế tuy chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn học Pháp – đất nước của kẻ xâm lược – văn học lãng mạn Việt Nam vẫn cắm rễ rất sâu vào cội nguồn dân tộc. Nó đã đi tiên phong và có đóng góp quan trọng vào công cuộc hiện đại hóa văn học dân tộc trên cơ sở truyền thống văn học Việt Nam. Hoài Thanh hiểu sâu sắc tấm lòng của những cây bút lãng mạn ấy họ yêu vô cùng tiếng mẹ đẻ. Họ viết văn , làm thơ để mong đóng góp được chút gì trong hoàn cảnh mất nước, vào việc giữ gìn và phát triển tiếng nói và văn chương dân tộc. Họ khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, đất nước và con người Việt Nam từ hình thức đến tâm hồn. Họ nói dùm nỗi buồn đau của người dân Việt Nam “ Thiếu quê hương” ngay trên mảnh đất đã sinh ra mình. Nếu như những tâm hồn lãng mạn phương Tây, chủ yếu tỏ thái độ khinh bạc đối với lối sống gọi là buôcgioa tư sản phàm tục trên quan điểm thẩm mĩ thì những cây bút lãng mạn Việt Nam, bên cạnh thái độ ấy, còn đối lập trên tinh thần dân tộc, đối với lối sống nô lệ, bằng lòng, thậm chí thoả mãn đối với thực tại của xã hội thực dân. Lòng yêu nước ấy, sau này sẽ đưa họ hầu hết đến với cách mạng và giúp họ theo đuổi hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ đến cùng. Các chặng đường phát triển văn học lãng mạn Việt Nam phát triển từ đầu thế kỉ XX đến 1945 qua hai bước, phù hợp với quá trình hiện đại hóa văn học Bước thứ nhất diễn ra từ đầu thế kỉ đến khoảng năm 1930 + Thơ Tản Đà, Đoàn Như Khuê, Trần Tuấn Khải. + Văn xuôi Đông Hồ Linh Phượng kí, Tương Phố giọt lệ thu, nhất là Hoàng Ngọc Phách Tố Tâm. Bước thứ hai diễn ra khoảng từ 1930- 1945. Thành tựu của văn học LMVN ở bước này rất phong phú + Phong trào thơ Mới mà tác giả là những cây bút rất trẻ , đầy tài năng, thấm nhuần tư tưởng và văn hóa của phương Tây hiện đại. Họ đã sáng tạo ra các thể thơ mới, hoặc làm mói các thể thơ truyền thống. Dặc biệt cái mới không ở hình xác câu thơ mà là ở tinh thần của nó. Ấy là cái tôi cá nhân cá thể được giải phóng về tình cảm, cảm xúc và trí tưởng tượng. Nó phá bỏ hệ thống ước lệ có tính chất phi ngã của thơ cũ để trực tiếp quan sát hoặc diễn tả thế giới bao gồm cả ngoại cảnh và nội tâm bằng con mắt tươi mới, xanh non của mình. Nó có nhiều khám phá mới lạ, tinh tế và đầy tài hoa về thiên nhiên về tình yêu. Nó đêm đến cho thơ một chất trẻ trung hấp dẫn không có trong thơ cổ. Tác giả tiêu biểu Thế Lữ, Huy Thông, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu , Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên , Nguyễn Bính + Về văn xuôi Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn Nhất Linh , Khái Hưng, Hoàng Đạo với mô hình tiểu thuyết ái tình mà nhân vật lí tưởng là đôi thanh niên nam nữ Âu hóa từ y phục đến tâm hồn. Đó là những nhân vật trí thức Tây học thuộc những gia đình giàu có và sang trọng trong xã hội cũ. Họ đấu tranh cho hạnh phúc cá nhân, cho luyến ái tự do và cho một phong trào Âu hóa. Những tác phẩm tiêu biểu ủa các nhà văn này thường là những tiểu thuyết luận đề chống lễ giáo phong kiến Nửa chừng xuân. Đoạn tuyệt, Lạnh lùng,..; những cải cách xã hội có tính chất không tưởng Con đường sáng, Gia đình,…; sự khủng hoảng sâu sắc về tinh thần Đẹp, Bướm trắng, Thanh Đức Truyện ngắn Thạch Lam, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,…
Ngày đăng 05/08/2019, 2150 Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi đề xuất giảng dạy hai tác phẩm trên trong một chủ đề dạy học thống nhất, góp phần hình thành kĩ năng đọc hiểu văn xuôi lãng mạn nói riêng và năng lực đọc nói chung cho HS. Có thể đặt tên cho chuyên đề này là Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 1945 Ngữ văn lớp 11. Thời lượng dạy học chuyên đề này là 6 tiết căn cứ vào PPCT hiện hành Đối tượng HS lớp 11 Hình thức dạy học Trên lớpThời gian thực hiện Học kì I SỞ GD & ĐT ……………… TRƯỜNG THPT ………………… - - Chuyên đề VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 - 1945 Ngữ văn lớp 11 Người viết ………………… Năm học 2018 – 2019 DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT Viết tắt GV HS HĐ PP KT NL CMT8 Viết đầy đủ Giáo viên Học sinh Hoạt động Phương pháp Kỹ thuật Năng lực Cách mạng tháng Tám CHUYÊN ĐỀ VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 - 1945 Ngữ văn lớp 11 GV ……………… Trường THPT ……………… A NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I NỘI DUNG Căn lựa chọn a Từ phân phối chương trình chưa hợp lý - Văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 có s ự phát tri ển v ượt b ậc đạt đến thành tựu đỉnh cao Chỉ vòng 15 năm, người đ ọc chứng kiến xuất hàng loạt bút chuyên nghi ệp tài nh ư Th ạch Lam, Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Thanh Tịnh, Lan Khai, Tchya - Đái Đức Tuấn, Thế Lữ Tên tuổi nghiệp họ gắn li ền v ới nh ững tìm tòi, đổi cách thức thể nội dung bút pháp nghệ thuật Sự phá cách, ch ất đại phong cách sáng tác văn nhân thi sĩ làm nên s ự đa s ắc diện cho văn xuôi lãng mạn Việt Nam - Hiện nay, sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập có 02 văn thuộc thể loại văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 “Hai đứa trẻ” Thạch Lam “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân Hai tác phẩm lại dạy khơng liền mạch nên khó tổng hợp làm bật đặc điểm dòng văn học Phân phối chương trình cụ thể hai tác phẩm cụ thể sau - Tiết 36, 37, 38 học “Hai đứa trẻ” Thạch Lam - Tiết 40, 41, 42 học “Chữ người tử tù” Nguyễn Tn b Tình hình dạy học văn xi làgx mạn Việt Nam 1930 - 1945 nhà trường nay - Phía người dạy + Khi phân tích thiên nội dung, thiên ngôn ngữ mà ý tới khối cảm nghệ thuật + Khơng ý tới tình cảm thụ nghệ thuật + Người dạy nói nhiều, giảng nhiều, đưa câu hỏi tháo gỡ phát nhiều câu hỏi cảm thụ, chưa ý đến phát triển lực đọc hiểu văn xuôi lãng mạn theo đặc trưng thể loại cho HS - Phía người học + Chưa biết cách để phân tích, cảm nhận + Sa đà vào học thuộc lòng, học vẹt, học theo hướng dẫn + Thiếu sáng tạo, liên tưởng, tưởng tượng khả liên hệ thực tế, thân nên thoát li học sách giáo khoa khó phân tích hiểu thấu đáo tác phẩm văn xuôi lãng mạn khác - Ngữ liệu để kiểm tra đánh giá sau học văn học sinh học sách giáo khoa… Điều khiến cho việc dạy học giáo viên vất vả việc học học sinh bị gián đoạn, đặc biệt sau học xong nhiều học sinh chưa hình thành kĩ đọc hiểu văn văn xuôi lãng mạn c Khắc phục Để khắc phục tình trạng này, chúng tơi đề xuất giảng dạy hai tác phẩm chủ đề dạy học thống nhất, góp phần hình thành kĩ đọc hiểu văn xi lãng mạn nói riêng lực đọc nói chung cho HS Có thể đặt tên cho chuyên đề là Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 Ngữ văn lớp 11 - Thời lượng dạy học chuyên đề là tiết căn vào PPCT hành - Đối tượng HS lớp 11 - Hình thức dạy học Trên lớp -Thời gian thực hiện Học kì I Nội dung - GV tổ chức, hướng dẫn cho HS thực nhiệm vụ học tập sau thông qua HĐ dạy kết hợp PP KT dạy học thích hợp - Huy động kiến thức, kĩ đọc hiểu văn xi lãng mạn nói chung đã học THCS tham khảo tài liệu để tìm hiểu khái niệm, đặc trưng, thi pháp thể loại văn xuôi lãng mạn - Hướng dẫn HS đọc hiểu, tự học kiểm tra, đánh giá theo bảng sau Hoạt động Thời lượng Tiết “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam tiết lớp Tiết Tiết “Chữ người tử tù” – tiết Nguyễn Tuân lớp Tiết Tiết Tiết Bài/ trang - Khái quát văn xuôi lãng mạn Việt Nam - “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam Giới thiệu tác giả, tác phẩm - “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam Bức tranh hố huyện lúc chiều tàn; Bức tranh phố huyện lúc đêm khuya - “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam Cảnh đợi tàu; Tổng kết - “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân Giới thiệu tác giả, tác phẩm; Tình truyện - “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân Nhân vật Huấn Cao - “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân Nhân vật quản ngục; Cảnh cho chữ; Tổng kết II MỤC TIÊU Kiến thức - Hiểu đặc sắc nội dung nghệ thuật tác ph ẩm đoạn trích Hai đứa trẻ -Thạch Lam; Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân; s ự đa dạng nội dung phong cách; c ảm h ứng sáng tác lãng m ạn, ý nghĩa nhân văn; nghệ thuật tả cảnh, tả người - Hiểu số đặc điểm thể loại truyện ngắn lãng mạn từ đầu kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945 Kĩ - Đọc - hiểu tác phẩm đoạn trích tự s ự đại theo đặc trưng thể loại - Kĩ làm việc nhóm, trình bày thơng tin, ết trình thông tin, ph ản biện, định Thái độ - Nhận thức ý nghĩa truyện ngắn, tiểu thuyết đại Vi ệt Nam lịch sử văn học dân tộc - Biết trân quý giá trị văn hóa truy ền thống mà truy ện ngắn, ti ểu thuyết đại Việt Nam đem lại - Có ý thức tìm tòi thể loại, từ ngữ, hình ảnh truy ện ng ắn, ti ểu thuyết đại Việt Nam - Có ý thức trân trọng người anh hùng - nghệ sĩ; yêu mến trẻ th Các lực hướng tới hình thành phát tri ển h ọc sinh * Năng lực chung - Năng lực sáng tạo Học sinh trình bày suy nghĩ cảm xúc thân trước vẻ đẹp tâm hồn trẻ thơ, vẻ đẹp người anh hùng - ngh ệ sĩ - Năng lực giao tiếp, hợp tác Thảo luận nhóm – cặp để th ể cảm nhận cá nhân lắng nghe ý kiến bạn để tự điều ch ỉnh cá nhân - Năng lực tư so sánh tổng hợp qua việc so sánh phong cách, nghệ thu ật tương phản hai tác giả sử dụng - NL tự học, tự khám phá tri thức, thu thập thông tin * Năng lực chuyên biệt - Năng lực đọc hiểu văn truyện ngắn theo đặc tr ưng th ể loại - Năng lực thưởng thức văn học/ cảm thụ thẩm mỹ Học sinh nhận đ ược giá trị thẩm mỹ tác phẩm - Năng lực tạo lập văn ngh ị luận - Vận dụng kiến thức học vào thực tế sống III BẢNG MÔ TẢ CÁC MỨC ĐỘ NHẬN THỨC Nội dung Nhận biết Thông hiểu Vận dụng Vận dụng thấp Về tác gi ả, - Học sinh nhận - Học sinh hiểu - Khái quát hồn cảnh đời biết, nhớ đ ược lí giải hoàn đặc điểm phong tác phẩm tên tác giả cảnh sáng tác có cách tác giả t hoàn cảnh đời tác động chi tác phẩm tác phẩm phối tới nội dung tư tưởng Thể loại tác phẩm - Học sinh nhận - Học sinh hiểu - Học sinh biết biết đặc điểm chất truyện nhận diện nghệ chung thể lo ại ngắn lãng mạn thuật truyện ngắn lãng mạn ngắn truyện lãng mạn từ đầu kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945 Đề tài, chủ đề, - Học sinh nhận - Học sinh hiểu - Học sinh vận c ảm đ ạo xúc chủ biết đề tài chủ đ ề, dụng, lựa chọn tác truyện lãng mạn học phẩm cảm nhận được đề tài ngắn cảm xúc chủ đ ạo gân tác phẩm gui sống truyện ngắn lãng ghi chép mạn học để Y nghĩa nội - Học sinh nhận - Học sinh hiểu - Học sinh cảm dung phẩm tác biết ghi nhớ ý nghĩa, nhận ý lô-gic nghĩa hình tiết ảnh, tiêu chi việc số hình ảnh, chi biểu - Học sinh hiểu tiết tiêu biểu đặc sắc ý nghĩa đặc sắc tác phẩm truyện chi tiết, hình ngắn lãng mạn ảnh, tiêu tác biểu truyện phẩm ngắn Việt Nam đặc sắc lãng mạn đại học Việt tác phẩm truyện Nam đại ngắn lãng mạn học Việt Nam đại học Giá trị ngh ệ - Học sinh nhận - Học sinh hiểu - Học sinh biết thuật chi Những diện thành tác dụng, trình bày cảm tiết, hình cơng nghệ thuật hiệu ngh ệ nhận giá tr ị ảnh, biện pháp tác phẩm truyện thuật nghệ thu ật tu từ ngắn lãng mạn truyện ngắn lãng chi tiết, Việt Nam mạn đại học Việt Nam hình ảnh, biện đại học pháp tu từ - Học sinh nhận - Học sinh hiểu tác dụng biện pháp tu từ biện pháp sử d ụng tu từ tác phẩm B TỔ CHỨC DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VĂN XUÔI LÃNG MẠN 1930 - 1945 I CHUẨN BỊ CỦA GV VÀ HS Chuân bi cua giáo viên - Soạn giáo án; chuẩn bị sách giáo khoa, sách giáo viên, tài li ệu tham kh ảo; sưu tâm tranh, ảnh địa danh Cẩm Giàng Hải D ương, Hà N ội, nhà văn Thạch Lam - Sưu tầm tranh, ảnh phóng to chân dung Nguyễn Tuân; tác phẩm “Vang bóng thời”; thư pháp giấy dó viết ch ữ “Tâm”, “Đ ức”, “Trí”, hay “Phúc”, “Lộc”, “Thọ” - Bảng phân công nhiệm vụ cho học sinh hoạt động lớp - Bảng giao nhiệm vụ học tập cho học sinh nhà Chuân bi cua học sinh - Đọc trước ngữ liệu sách giáo khoa để trả lời câu hoi tìm hiểu - Các sản phẩm thực nhiệm vụ h ọc tập nhà do giáo viên giao t ti ết trước - Đồ dùng học tập PHÁP, KỸ THUẬT DẠY HỌC Phương pháp - PP thảo luận nhóm - PP dạy học nêu vấn đề - PP phát vấn, đàm thoại - PP thuyết trình… Kỹ thuật dạy học - KT đặt câu hỏi - KT chia nhóm - KT đọc sáng tạo - KT trình bày phút… III THIẾT KẾ TIẾN TRÌNH DẠY HỌC CHỦ ĐỀ VĂN XI LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 – 1945 Tiết 1 - Khái quát văn xuôi lãng mạn Việt Nam - “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam Tiết 1 Ổn đinh tổ chức Giáo viên kiểm tra sĩ số lớp, nắm tình hình sức khoe h ọc sinh Kiểm tra cũ kiểm tra lồng ghép tiết học Bài mới Hoạt động Mục Hoạt Hoạt động tiêu, ý động cua giáo tưởng, cua học viên thiết sinh kế hoạt động A KHỞI ĐỘNG 5 – phút Trò Dẫn - Giáo viên chơi Ơ dắt, giới chuyển giao chữ bí thiệu nhiệm vụ mật về tác + HS + Trình giả quan sát chiếu tranh Nguyễn ảnh, cho hs Tuân hình xem tranh tác Học ảnh phẩm sinh thực tác giả, tác “Chữ phẩm văn người nhiệm học lãng tử tù” v ụ mạn VH đâu Tạo + Lắp XX đến tâm ghép tác CMT8 hứng phẩm 1945 thú cho với tác học sinh giả vào Họ c học sinh báo cáo kết thực - Giáo viên nhiệm nhận xét vụ dẫn vào mới Văn học giai đoạn từ năm 1930 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945CMT8 , xuất trào lưu lãng mạn chủ nghĩa với thành tựu Sản phâm yêu cầu Phương tiện hỗ trợ Máy chiếu - “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam - “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân bật Thơ Mới; tiểu thuyết Tự lực văn đồn Có thể nói, số nhà văn lãng mạn, Thạch Lam Nguyễn Tuân bút tiêu biểu Điều thể qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ” Thạch Lam “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân B HOẠT ĐỘNG HÌNH THÀNH KIẾN THỨC MỚI 38 – 40 phút PHẦN MỘT KHÁI QUÁT VỀ VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM Hoạt Giúp Học - Giáo viên PHẦN MỘT KHÁI QUÁT động 1 học sinh sinh thực chuyển giao VỀ VĂN XUÔI LÃNG Khái khái nhiệm vụ MẠN VIỆT NAM quát quát nhiệm + Hướng văn xuôi văn xuôi vụ - Học dẫn học lãng lãng sinh đọc sinh khái mạn mạn lạ i quát văn Việt Việt “Khái xuôi lãng Nam Nam quát văn mạn Việt 1930 – học Việt Nam 1930 1945 Nam từ 1945 nội đâu + Giáo viên dung kỉ XX đến đề nghị học nghệ CMT8 sinh đọc lại thuật năm “Khái 1945” quát văn phân học Việt chủ Nam từ đâu nghĩa kỉ XX Máy chiếu Họ c sinh trả lời + Nhận xét nội dung lãng mạn hai tác phẩm theo đặc trưng thể loại? lập, thích khoa trương, phóng đại, sử dụng ngôn ngữ giàu sức biểu cảm xúc Nội dung + Thạch Lam - “Hai đứa trẻ” xúc động, trân trọng khát vọng đổi đời, sống hạnh phúc người bé nhỏ bị lãng quên nơi phố huyện nghèo xưa + Nguyễn Tuân – “Chữ người tử tù” tìm thấy tỏa sáng nhân cách người tử tù nơi ngục thất tăm tối; vươn lên đẹp, thiên lương ngục quan, nhà tù xã hội PK xấu xa, suy tàn Các nhà văn lãng mạn thường tìm kiếm giá trị cao đẹp cảnh đời tăm tối, tâm thường; khám phá cao số phận bị ruồng bo, chà đạp + “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam Liên An nhỏ phải thay mẹ trơng coi quán tạp hóa nhỏ để kiếm sống Hàng đêm em lại cố thức để đón chuyến tàu đêm qua phố huyện Con tầu với toa sang trọng, đèn sáng trưng chiếu sáng xuống mặt đường tiếng còi rít lên rầm rộ mang theo giới khác đối lập với phố huyện tăm tối, tĩnh lặng Nó thắp lên tâm hồn em niềm khát vọng mơ hồ thật xúc động, đáng trân trọng > Nhà văn muốn qua thể khát vọng người bé nhỏ bị lãng quên xã hội cũ + “Chữ người tử tù” – Nguyễn Tuân Thể quan điểm thẩm mĩ riêng Nguyễn Tuân Cái đẹp gắn với văn hóa dân tộc, gắn với thiện, có sức cảm hóa xấu, ác đẹp với đời Nhân vật văn xuôi lãng mạn hành động theo tưởng tượng chủ quan nhà văn trực tiếp thể tư tưởng tác giả Văn học lãng mạn tự biểu tình cảm cá nhân, nhà văn lãng mạn thường tuyệt đối hóa vai trò tơi cá nhân, đặt chúng cao thực tế khách đời sống để thể tư tưởng Tóm lại + Văn học LM thường viết cảm hứng lãng mạn + Nhà văn thường hướng tới phi thường có tính biệt lệ + Xây dựng hình tượng người vượt lên thực đời sống hoàn cảnh, hướng tới tốt đẹp thánh thiện thực Có khát võng mơ hồ cung đủ để niềm tin người có điểm tựa + Lãng mạn kết hợp nhuân nhuyễn với chất thực tạo nên vẻ đẹp riêng văn xuôi lãng mạn C HOẠT ĐỘNG LUYỆN TẬP 5 phút Câu hỏi 1 Sức hấp dẫn truyện Thạch Lam chủ yếu tốt từ đâu? a Tình huống, kiện b Tính cách, số phận nhân vật c Các xung đột d Thế giới nội tâm nhân vật Câu hỏi 2 Trong truyện Hai đứa trẻ có nhiều Khắc Học sinh sâu bút trả lời pháp câu hoi đậm chất trữ tình Thạch Lam Giáo viên d Thế giới nội tâm chuyển giao nhân vật nhiệm vụ, giao câu hoi cho học sinh Khắc Học sinh sâu tả lời câu nghệ hoi thuật tương phản đối lập Giáo chuyển nhiệm chiếu hoi viên a Ánh sáng đoàn tàu giao ánh sáng đèn vụ, chị Tí câu Máy chiếu hình ảnh tương phản Sự tương phản gây ấn tượng rõ tình trạng sống mòn moi, le lói người nơi phố huyện? a Ánh sáng đoàn tàu ánh sáng đèn chị Tí b Thế giới phố huyện “một chút giới khác” c Ánh sáng bóng tối thuộc đêm nơi phố tác phẩm “Hai đứa trẻ” – Thạch Lam huyện d Hình ảnh vu trụ bao la hình ảnh người bé nho Câu hỏi 3 Dòng sau nhận định nhân vật viên quản ngục? A Tư thế, suy nghĩ, cách ứng xử, hành động ông vẻ đẹp nhân cách hiên ngang, bất khuất toả sáng đêm tối Khắc sâu kiến thức nhân vật quản ngục Họ c sinh thực nhiệm vụ Họ c sinh báo cáo kết thực nhiệm vụ - Giáo viên chuyển giao A Tư thế, suy nghĩ, cách nhiệm vụ, ứng xử, hành động nêu câu hoi ông vẻ đẹp nhân cách hiên ngang, bất khuất toả sáng đêm tối xã hội tù ngục vô nhân đạo Máy chiếu xã hội tù ngục vơ nhân đạo B Là người có nhân cách, có lương tâm, thời đại nhiễu nhương, phải đành lòng phục vụ cho triều đại suy thoái C Tiêu biểu cho người không sáng tạo đẹp biết trân trọng, thực lòng yêu đẹp tài hoa D “Trong hoàn cảnh đề lao, người ta sống bàng tàn nhẫn, lừa lọc, tính cách dịu dàng biết giá người, biết trọng người âm trẻo chen vào đàn mà nhạc luật hỗn độn xô bổ” Câu hỏi 4 “Cảnh tượng xưa chưa thấy” Khắc sâu cảnh tượng xưa chưa có – cảnh cho chữ Họ c sinh thực nhiệm vụ Họ c sinh báo cáo kết thực - Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ, đưa câu hoi C Một người tù, cổ đeo gông, chân vướng xiềng đậm tô nét chữ lụa trắng tinh căng mảnh ván Người tù viết xong chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất đồng tiền kẽm đánh dấu Máy chiếu truyện ngắn “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân cảnh tượng sau đây? A Rồi hôm, quản ngục mở khố cửa buồng kín, khép nép hoi ơng Huấn B Một buổi chiều lạnh, viên quản ngục tái nhợt người sau tiếp đọc công văn C Một người tù, cổ đeo gông, nhiệm vụ ô chữ đặt phiến lụa óng Và thây thơ lại gây gò, run run bưng chậu mực chân vướng xiềng đậm tô nét chữ lụa trắng tinh căng mảnh ván Người tù viết xong chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt phiến lụa óng Và thây thơ lại gây gò, run run bưng chậu mực D Ngục quan cảm động, vái người tù vái, chắp tay nói câu mà dòng nước mắt ri vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào “Kẻ mê muội xin bái lĩnh” Câu hỏi 5 Dòng sau khơng thuộc giá trị nội dung truyện ngắn “Chữ người tử tù” Nguyễn Tuân? A Ca ngợi đẹp, tài hoa B Nhân Khắc sâu nghệ thuật tác phẩm “Chữ người tử tù” Họ c sinh thực nhiệm vụ Họ c sinh báo cáo kết thực nhiệm vụ - Giáo chuyển nhiệm đưa hoi viên giao D Lối kể chuyện vừa cổ vụ, kính vừa đại, tả câu cảnh tạo tình xây dựng tính cách độc đáo Máy chiếu vật có sức hút mãnh liệt khí tiết, nhân cách sống C Ca ngợi đẹp toả từ “thiên lương” người D Lối kể chuyện vừa cổ kính vừa đại, tả cảnh tạo tình xây dựng tính cách độc đáo D VẬN DỤNG 5 phút Hoạt Giúp Học sinh động 1 học sinh làm Nêu hiểu nhà biểu bút bút pháp pháp nghệ tương thật phản chủ tác nghĩa dụng lãng nạm trong Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ, hướng dẫn học sinh làm nhà * Biểu tương phản Máy - Tương phản ánh chiếu sáng bóng tối - Tương phản hình ảnh đồn tàu phố huyện nhất đoàn tàu qua sau đoàn tàu qua - Tương phản sống thực mơ ước xa xôi * Nêu tác dụng bút pháp tương phản truyện “Hai đứa trẻ” tác phẩm “Hai đứa trẻ” cung văn xuôi lãng mạn Việt Nam Hoạt động 2 Nêu bút pháp tương phản, đối lập thể cảnh cho chữ truyện “Chữ người tử tù”? Giúp học sinh hiểu bút pháp nghệ thật chủ nghĩa lãng nạm tác phẩm “Chữ người tử tù” cung văn xuôi GV giao nhiệm vụ Học + Nêu bút sinh làm pháp tương phản, đối nhà lập thể cảnh cho chữ truyện Chữ người tử tù? truyện “Hai đứa trẻ” - Làm bật tranh phố huyện êm đềm, bình lặng nghèo khó, tù túng, đơn điệu bóng tối mênh mơng hiu quạnh - Thể sinh động sống người lao động bé nho, vô danh nơi Họ không thiếu thốn vật chất mà phải sống sống tẻ nhạt, đơn điệu, khơng ánh sáng niềm vui, có chút hi vọng bé nho mong manh, xa xôi leo lét đèn nơi phố huyện - Góp phân thể lí giải biểu tinh tế tâm hồn nhân vật, Liên * Bút pháp tương phản, Máy đối lập thể chiếu cảnh cho chữ truyện Chữ người tử tù Đối lập tương phản cảnh a Về không gian Chơi chữ thú chơi tao nhã thường diễn thư phòng, lại diễn phòng giam “Tối, chật hẹp, ẩm ướt, tường mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián” b Về thời gian Cảnh cho chữ lại không diễn lúc thiên bạch nhật lại diễn lúc nửa đêm lính canh ngủ, đêm cuối tử tù HC lãng mạn Việt Nam -> Cả không gian thời gian tăm tối c Tương phản với tăm tối, bẩn thỉu ánh sáng ánh sáng đo rực bó đuốc tẩm dâu, mâu trắng tinh lụa bạch nguyên vẹn lân hồ, mùi thơm chậu mực bốc lên Tuyệt vời tương phản với tăm tối ngục thất sáng tạo đẹp đẹp nghệ thuật, đẹp tài năng, dung khí nhân cách Tương phản nhân vật Vị tư nhân vật cảnh cho chữ cung có thay bậc, đổi ngôi a HC người tù, “cổ đeo gong, chân vướng xiềng đậm tô nét chữ lụa bạch trắng tinh” phong thái ung dung, đĩnh đạc người tự nhất, uy quyền ơng người sáng tạo đẹp, tượng trưng cho đẹp phẩm giá ng HC viết chữ cuối cho đời vào cõi chết mà vào cõi tài, khí phách nhân cách ơng người tơn kính, giữ gìn tất thiên lương b Viên quản ngục người có uy quyền lại “khúm núm” nhặt đồng tiền kẽm đánh dấu ô cho HC viết chữ Đây cử sợ sệt luồn cúi mà ngưỡng mộ, trân trọng dòng chữ cuối HC Nhưng nét chữ vng, tươi tắn nói nên hồi bão tung hoành đời người, nét chữ kết tinh tài năng, tâm huyết, vẻ đẹp người mà ông ngưỡng mộ Người nghệ sĩ tài hoa bị hãm hại đẹp phi thường đời có thiên lương Ánh sáng bó đuốc phải ánh sáng thiên lương mà người tử tù chiếu lên để lay tỉnh ngục quan Chi tiết ngục quan khúm núm ngục quan vái tử tù nước mắt nghẹn ngào “kẻ mê muội xin bãi lĩnh”, vái lạy trước nhân cách có với lời thề danh dự Có thể HC bị giải vào kinh chịu án chem cung lúc viên quản ngục trả áo mu để quê để giữ thiên lương cho lành vững người xứng đáng thưởng thức đẹp giữ thiên lương c Thây thơ lại người tự lại run run bưng chậu mực giúp HC viết chữ Ơng run run xúc động trân trọng “giờ phút thiêng liêng xưa chưa có” MỞ RỘNG, PHÁT TRIỂN Ý TƯỞNG SÁNG TẠO 2 phút Trình Trình Trình bày Trình bày Trình bày ngắn gọn bày bày ngắn gọn ngắn gọn khác bút ngắn ngắn sự khác pháp tương phản đối lập gọn gọn khác giữa bóng tối ánh sáng khác khác bút pháp qua hai tác phẩm “Hai nhau bút tương phản đứa trẻ” - Thạch Lam bút bút pháp đối lập “Chữ người tử tù” pháp pháp tương bóng tối Nguyễn Tuân tương tương phản đối ánh sáng phản phản lập qua hai tác đối lập đối lập bóng tối phẩm “Hai giữa ánh đứa trẻ” bóng tối bóng tối sáng qua Thạch Lam ánh ánh hai tác “Chữ sáng sáng phẩm người tử tù” qua hai qua hai “Hai đứa Nguyễn tác tác trẻ” - Tuân phẩm phẩm Thạch “Hai “Hai Lam đứa trẻ” đứa trẻ” “Chữ - Thạch - Thạch người tử Lam Lam tù” “Chữ “Chữ Nguyễn người người Tuân tử tù” - tử tù” Nguyễn Nguyễn Tuân Tuân E Máy chiếu Dặn dò - Dặn dò học sinh nhà học cu chuẩn bị m ới Chủ đề Văn xuôi thực Việt Nam 1930 - 1945 Đoạn trích “Hạnh phúc tang gia” – trích “Số đo” – Vu Trọng Phụng; “Chí Phèo” – Nam Cao ... Hướng văn xuôi văn xuôi vụ - Học dẫn học lãng lãng sinh đọc sinh khái mạn mạn lạ i quát văn Việt Việt “Khái xuôi lãng Nam Nam quát văn mạn Việt 1930 – học Việt Nam 1930 1945 Nam từ 1945 nội đâu... tác văn nhân thi sĩ làm nên s ự đa s ắc diện cho văn xuôi lãng mạn Việt Nam - Hiện nay, sách giáo khoa Ngữ văn 11, tập có 02 văn thuộc thể loại văn xuôi lãng mạn Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 ... VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM Hoạt Giúp Học - Giáo viên PHẦN MỘT KHÁI QUÁT động 1 học sinh sinh thực chuyển giao VỀ VĂN XUÔI LÃNG Khái khái nhiệm vụ MẠN VIỆT NAM quát quát nhiệm + Hướng văn xuôi - Xem thêm -Xem thêm Chuyên đề VĂN XUÔI LÃNG MẠN VIỆT NAM 1930 1945,
Một chủ đề dạy học thống nhất, góp phần hình thành kĩ năng đọc hiểu văn xuôi lãng mạn nói riêng và năng lực đọc nói chung cho HS. Có thể đặt tên cho chuyên đề này là Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - Domain Liên kết Bài viết liên quan Chuyên đề văn học lãng mạn việt nam Chuyên đề Thi pháp văn xuôi lãng mạn 2. 1. Không gian nghệ thuật Văn xuôi lãng mạn thường tạo dựng những khung cảnh nghệ thuật có sức gợi đặc biệt. Khung cảnh này thường được cảm nhận với một nỗi se lòng bởi chất đầu thu, phẳng lặng đến Xem thêm Chi Tiết
CHUYÊN ĐỀ HỘI THẢO ĐỀ TÀI ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN NGƯỜI VIẾT NGUYỄN THỊ LAN DUNG ĐƠN VỊ TỔ VĂN – TRƯỜNG THPT CHUYÊN BIÊN HOÀ – TỈNH HÀ NAM A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong lịch sử văn học nhân loại, có những hiện tượng văn học sinh ra rồi mất đi do những giá trị tự thân, nằm ngoài ý định chủ quan của con người. Song cũng có những hiện tượng văn học sinh ra là của một thời mà tồn tại mãi mãi với thời gian, một trong số những hiện tượng văn học đó là chủ nghĩa lãng mạn. Chủ nghĩa lãng mạn – thuật ngữ vừa để chỉ một trào lưu văn học, vừa để chỉ một phương pháp sáng tác - tồn tại trong nền văn học châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt gắn với sự đổ vỡ niềm tin của con người vào cách mạng tư sản, song trào lưu lãng mạn đã vượt ra khỏi giới hạn tồn tại chật hẹp của nó để tạo nên tầm ảnh hưởng sâu rộng đến văn học của nhiều nước trên thế giới, trong đó có nền văn học Việt Nam. Ra đời sau chủ nghĩa lãng mạn châu Âu khoảng một thế kỷ, trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam 1930-1945 vừa tiếp thu ảnh hưởng từ văn học lãng mạn Pháp vừa có nhiều cách tân đổi mới phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam và khuynh hướng tư tưởng thẩm mỹ của người Việt. Thơ mới lãng mạn và văn xuôi lãng mạn Tự lực văn đoàn là hai phong trào văn học lớn tạo nên diện mạo chủ yếu của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Việt Nam. Chủ nghĩa lãng mạn với tư cách là một trào lưu văn học lớn của thế giới xưa nay luôn được các nhà nghiên cứu quan tâm sâu sắc. Và mặc dầu còn không ít những ý kiến trái chiều, nhưng xét một cách toàn diện, không ai có thể phủ nhận được những đóng góp lớn lao của chủ nghĩa lãng mạn trong việc khẳng định và phát huy bản ngã, đề cao tự do cá nhân, giải phóng tư tưởng và tình cảm con người ra khỏi những luật lệ khắt khe, hà khắc, đề cao tưởng tượng, giải phóng quá trình sáng tạo, do đó tạo nên sự đa dạng trong phong cách nghệ thuật biểu hiện, làm cho văn học phát triển nở rộ chưa từng có. Đúng là hiện tượng “trăm hoa đua sắc”. Vì thế, chủ nghĩa lãng mạn luôn là một đề tài chưa bao giờ cũ, luôn có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với giới học thuật và luôn hứa hẹn về những khám phá mới mẻ, giàu giá trị. Trong chương trình Ngữ văn THPT, ở phần văn học nước ngoài, học sinh được học đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền”, trích trong tiểu thuyết “Những người khốn khổ” của V. Huy-gô, một “trái núi” lừng lững của văn học lãng mạn Pháp. Ở phần văn học Việt Nam, sau một khoảng thời gian văn chương lãng mạn 1 chỉ được “nhắc tới” như một cứ liệu cần thiết để so sánh nhằm làm nổi bật tính chất tiến bộ của văn chương hiện thực, tính chất tính cực của văn chương cách mạng, từ năm 1989 nhiều tác phẩm văn học lãng mạn được đưa vào dạy học trong nhà trường. Đến nay rất nhiều tác giả văn học lãng mạn được học trong chương trình như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận, Nguyễn Bính, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, đủ thấy vị thế, vai trò lớn lao của văn học lãng mạn trong nhà trường… Người giáo viên sẽ không thể có những bài dạy tốt cho học sinh nếu không tìm hiểu, nghiên cứu thật kỹ những đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Như vậy, lý do dẫn chúng tôi đến đề tài “Đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn” vừa là niềm yêu thích, say mê với một hiện tượng văn học lớn của nhân loại, vừa xuất phát từ yêu cầu thực tế của công việc giảng dạy văn học trong nhà trường. II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI Tiến hành nghiên cứu đề tài này, chúng tôi nhằm đạt đến những mục đích sau đây 1. Về lý luận Nhận thức sâu sắc, toàn diện hơn về chủ nghĩa lãng mạn, bước đầu có cái nhìn so sánh đối chiếu giữa văn học lãng mạn Việt Nam với văn học lãng mạn châu Âu cụ thể là văn học lãng mạn Pháp, thấy sự học tập và tinh thần đổi mới, kế thừa và phát huy trong văn học lãng mạn Việt Nam so với văn học lãng mạn Pháp, từ đó đánh giá đúng về giá trị của văn học lãng mạn Việt Nam. 2. Về thực tiễn Từ đề tài này, giáo viên vận dụng đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn vào việc hướng dẫn học sinh đọc hiểu tác phẩm văn học lãng mạn Việt Nam, lý giải các hiện tượng văn học lãng mạn một cách có cơ sở và thuyết phục, giúp học sinh nâng cao nhận thức về văn học lãng mạn, biết chỉ ra và phân tích đặc trưng của văn học lãng mạn trong từng tác phẩm cụ thể. 3. Về thái độ Từ nhận thức đúng đắn và lòng say mê, trân trọng của mình đối với văn học lãng mạn, giáo viên giúp học sinh có một cái nhìn sự đánh giá đúng về giá trị của văn học lãng mạn, từ đó thêm yêu quý trân trọng những di sản tinh thần quy báu của văn học nước nhà và văn học thế giới, góp phần phát triển năng lực, bồi đắp nhân cách người học. III. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU Với đề tài “Đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn”, chúng tôi xác định đây là một vấn đề rất lớn đòi hỏi phải có sự tìm tòi nghiên cứu một cách toàn diện và công phu. Trong khuôn khổ của một chuyên luận, với một khoảng thời gian có hạn, chúng tôi không có tham vọng lý giải tường tận mọi vấn đề, mà trên cơ sở một cái nhìn tổng quan về văn học lãng mạn thế giới, sẽ đi sâu vào đặc trưng của trào lưu lãng mạn trong 2 văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với một số tác giả tác phẩm tiêu biểu. Thiết nghĩ việc làm này cũng hoàn toàn phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với công tác giảng dạy trong nhà trường của người giáo viên. IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thực hiện đề tài này, chúng tôi vận dụng phối kết hợp các phương pháp nghiên cứu sau 1. Phương pháp tổng hợp 2. Phương pháp phân tích 3. Phương pháp nghiên cứu tiểu sử tác giả 4. Phương pháp so sánh đối chiếu….. 3 B. PHẦN NỘI DUNG CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN I. Khái niệm chủ nghĩa lãng mạn 1. Lãng mạn. Lãng mạn nguyên gốc là từ tiếng Pháp “romance”. Vào đầu thế kỷ XVIII, từ lãng mạn vốn được dùng để chỉ tất cả những gì hoang đường, kì lạ, khác thường chỉ thấy có trong sách chứ không có trong hiện thực. Vào khoảng giữa thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, lãng mạn trở thành một trào lưu văn học lớn ở châu Âu. Từ “romance” được dịch ra tiếng Hán là “lãng mạn”, từ khi xuất hiện cho đến nay, có nhiều cách định nghĩa về thuật ngữ này. Tuy nhiên, nương theo nghĩa chiết tự của từ “lãng mạn”, ta có thể hiểu lãng là sóng nước, phóng túng; mạn là chỗ nước tràn ra, không có gì gò bó. Lãng mạn có nghĩa là sóng tràn bờ, chỉ sự phóng túng, tự do vượt lên trên mọi ràng buộc. Xung quanh từ lãng mạn có nhiều thuật ngữ khác nhau tính chất lãng mạn, phương thức lãng mạn, hình thái lãng mạn, chủ nghĩa lãng mạn... 2. Chủ nghĩa lãng mạn. Theo nhà nghiên cứu mĩ học, triết học Hungari Lukacs, cho đến nay có đến định nghĩa về chủ nghĩa lãng mạn. Nhìn vào con số trên đủ thấy chủ nghĩa lãng mạn từ khi xuất hiện đã gây nhiều quan tâm, tranh cãi cho các nhà nghiên cứu, lý luận phê bình ở nhiều nước, điển hình như ở Nga, ở Pháp... Ở Nga, nhà thơ Puskin ghi nhận những tranh cãi nóng hổi về chủ nghĩa lãng mạn; tranh cãi thì nhiều mà làm sáng tỏ vấn để chẳng được bao nhiêu. Trong một bức thư gửi bạn ngày 25/3/1825, Puskin còn viết “Tôi nhận thấy rằng tất cả chúng ta đều quan niệm rất mơ hồ về chủ nghĩa lãng mạn”. Biêlinxki trong bài “Văn học Nga” 1841 thì phát biểu “Chủ nghĩa lãng mạn, đó là thế giới nội tâm của con người, thế giới của tâm hồn và trái tim”. Ở Pháp, cuộc tranh cãi về chủ nghĩa lãng mạn còn náo động hơn xung quanh vở kịch “Héc-na-ni” của “trận chiến Héc-na-ni”. người được coi như chủ súy của trường phái lãng mạn thì quan niệm “Chủ nghĩa lãng mạn là chủ nghĩa tự do trong văn học”. Riêng ở Việt Nam, tranh luận về chủ nghĩa lãng mạn xoay quanh vấn đề thơ cũ và thơ mới, văn xuôi lãng mạn hay văn xuôi hiện thực rất sôi nổi. Như vậy, việc xác định một khái niệm chính xác tuyệt đối về chủ nghĩa lãng mạn là không đơn giản. Tuy nhiên, có thể hiểu Chủ nghĩa lãng mạn là một thuật ngữ chỉ một trong những trào lưu văn hóa lớn nhất ở Âu – Mĩ vào cuối thế kỷ XVIII và 4 nửa đầu thế kỷ XIX, có ảnh hưởng và ý nghĩa lớn đối với sự phát triển văn học toàn thế giới “Từ điển thuật ngữ văn học”. Chủ nghĩa lãng mạn hướng đến cái chủ quan, cái lý tưởng, vượt ra ngoài thực tại, khác với chủ nghĩa hiện thực gắn chặt với đời sống. Tùy theo thái độ phản ứng lại đối với thực tại đời sống và cách tìm lối thoát của các nghệ sĩ, người ta chia chủ nghĩa lãng mạn thành hai khuynh hướng lãng mạn tích cực và lãng mạn tiêu cực. II. Cơ sở ra đời của chủ nghĩa lãng mạn. Không còn nghi ngờ gì nữa, chủ nghĩa lãng mạn là một trào lưu văn hóa, một hiện tượng nghệ thuật quan trọng nhất của thế kỷ XIX ở châu Âu, nhưng xét trong lĩnh vực văn học, chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ nét nhất ở Pháp, nơi có nền văn học phát triển vô cùng rực rỡ, được đánh giá là “nền văn học chủ đạo của châu Âu”. Vậy đâu là cơ sở ra đời của chủ nghĩa lãng mạn ở Pháp? 1. Cơ sở xã hội. Trước cuộc cách mạng Pháp 1789, xã hội Pháp phân hóa làm ba đẳng cấp tu sĩ, quý tộc, bình dân nên xảy ra tình trạng bất bình đẳng sâu sắc, bất hợp lý cả về cơ cấu kinh tế, xã hội, văn hóa tinh thần, chính trị, giáo dục... Triều đình Lui XVI của Pháp sống xa xỉ, phung phí dẫn đến khủng hoảng tài chính rồi khủng hoảng chính trị trầm trọng. Cuộc cách mạng tư sản Pháp nổ ra năm 1789 với khẩu hiệu “Tự do – bình đẳng – bác ái” đã đánh đổ chế độ phong kiến, tạo nên một bước ngoặt vĩ đại không chỉ đối với Pháp mà còn đối với cả châu Âu, nhiều người đặt hi vọng vào một chế độ xã hội mới sẽ đem lại “tự do – bình đẳng – bác ái” cho họ, cải thiện bầu không khí nặng nề từ lâu bao phủ lên xã hội Pháp. Tuy nhiên, không lâu sau cuộc cách mạng tư sản, các tầng lớp nhân dân Pháp đã sớm phải thất vọng vì cách mạng Pháp không theo con đường “tự do – bình đẳng – bác ái” như khẩu hiệu đã đề ra và họ đã có những hành động chống đối. Cái mà họ chống đối không phải là lý tưởng cách mạng mà là thành quả thực tế của cuộc cách mạng không như họ mong muốn. đã nhận xét về giai đoạn này “Vì những cơ cấu mới tưởng như hợp lý hơn so với trước kia, thì lại hoàn toàn không hợp lý... phương châm bác ái được thực hiện bằng những trò lừa bịp, đố kỵ trong cạnh tranh...”. Chính những điều trên đã dẫn đến hiện tượng phủ nhận thực tại sau cách mạng thể hiện qua nhiều thái độ, hành động khác nhau thế lực quý tộc cũ nổi dậy, tầng lớp dân chủ cấp tiến vươn lên, xã hội Pháp lại phải chứng kiến một thời kỳ dài đầy biến động liên tiếp. Năm 1804 Napôlêông Bônapac làm cuộc chính biến, lên ngôi hoàng đế, lập nên Đế chế I tồn tại trong 10 năm 1804 – 1814. Sau đó tái lập chế độ phong kiến với triều đình nhà Buôcbông 1815 – 1830; chế độ quân chủ tư sản của Lui Philip I 1830 – 1848. 5 Đây chính là những tiều đề lịch sử dẫn đến sự ra đời của văn học lãng mạn Pháp. Cac Mac nói “Chủ nghĩa lãng mạn là sự phản ứng đầu tiên đối với cách mạng Pháp và tư tưởng khai sáng gắn liền với cuộc cách mạng đó”. E. Faget cho rằng “Chủ nghĩa lãng mạn là sự ghê tởm đối với thực tại và nguyện vọng muốn thoát ra khỏi thực tại đó”. 2. Cơ sở tư tưởng. Xét trên phạm vi rộng, có thể thấy sự hình thành chủ nghĩa lãng mạn ở châu Âu có quan hệ mật thiết với tư tưởng triết học ở châu Âu đương thời, đó là triết học duy tâm cổ điển Đức. Đây là một phong trào lãng mạn trong lĩnh vực triết học, với những đại biểu xuất sắc như Kantơ, với đặc trưng là đề cao tình cảm, tinh thần con người, đã cung cấp cơ sở lý luận cho chủ nghĩa lãng mạn trong văn học. Sự hình thành của chủ nghĩa lãng mạn cũng có cội nguồn từ kinh nghiệm lịch sử và đấu tranh trong bản thân văn học. Văn học cảm thương chủ nghĩa Anh thế kỷ XVIII yêu cầu giải phóng cá tính, chủ trương tự do trong tình cảm, quay trở lại tự nhiên thuần phác, đại biểu là Rutxô; phong trào cách tân với đại biểu là Gơt thì nhấn mạnh cá tính, sắc thái tình cảm mãnh liệt...Ngoài ra, chủ nghĩa cổ điển trước đó có khuynh hướng giáo điều lí tính khô cứng tạo thành những giới luật hà khắc đối với tự do biểu hiện tư tưởng của nhà văn, dẫn đến sự phản đối mạnh mẽ của một số nhà văn, điều này cũng góp phần thúc đẩy sự ra đời của chủ nghĩa lãng mạn. Xét trên phạm vi hẹp, riêng ở nước Pháp thế kỷ XVIII được coi là thế kỷ Ánh sáng, là thế kỷ mà văn chương Pháp đã dành trọn thời gian để hướng về mục tiêu khai sáng, đổi mới văn hóa tinh thần của nước Pháp. Đây là thế kỷ của văn chương triết học, văn chương chính luận và bút chiến, đặc biệt văn chương còn hướng về mục tiêu chống phong kiến, chống văn hóa trung cổ, cổ vũ cho một nền văn học mới có những mục tiêu nhân bản mới. Chủ nghĩa lãng mạn trong văn chương Pháp ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa xã hội không tưởng và các nguyên lý cơ bản của tư tưởng Ánh sáng, đó là - Dựa trên nền tảng chính là nguyên lý tự do. - Chống định kiến, chống tinh thần tiên nghiệm, không dùng một nguyên lý duy nhất để giải thích hiện tượng. - Tách rời niềm tin tôn giáo khỏi tri thức con người. - Thích thực nghiệm, cổ vũ tìm tòi kiến thức. Dựa trên sự chi phối của những trào lưu, những luồng tư tưởng đó, chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Pháp lại phân chia ra hai khuynh hướng lãng mạn tiêu cực và lãng mạn tích cực. Hai khuynh hướng này có mối liên hệ phức tạp, đan xen và có sự chuyển hóa lẫn nhau. 6 III. Quá trình phát triển của chủ nghĩa lãng mạn. Thật ra, chủ nghĩa lãng mạn khởi đi từ Anh và Đức từ khoảng năm 1795, có mặt đồng thời ở hầu hết lĩnh vực nghệ thuật như văn học, hội họa, điêu khắc, âm nhạc... Nhưng chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ nét nhất trong văn học Pháp. Văn học lãng mạn Pháp phản ánh tình hình đấu tranh giai cấp trong khoảng thời gian giữa hai cuộc cách mạng, cách mạng năm 1789 và cách mạng năm 1848. Sự vận động và phát triển của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học Pháp thể hiện qua đặc điểm và thành tựu trong sáng tác của những nhà văn, nhà thơ lãng mạn hết sức điển hình, thuộc hai khuynh hướng lãng mạn tiêu cực và lãng mạn tích cực, trong đó khuynh hướng lãng mạn tiêu cực xuất hiện trước. 1. Khởi đầu là khuynh hướng lãng mạn tiêu cực, gồm hầu hết tác phẩm được xuất bản trước những năm 30 của thế kỉ XIX. Bà Đờ Xtan 1776 – 1817 là người góp phần định hướng cho nền văn học mới về mặt lí luận. Bà đã khẳng định ưu thế của xúc cảm trong văn học, mở ra chân trời của sự giải phóng văn học khỏi những quy phạm của chủ nghĩa cổ điển. Bà đã mở rộng ý niệm về cái đẹp. Hai tiểu thuyết lãng mạn của bà là “Đenphin” 1802 và “Côrin hay là Italia”1807 là những tác phẩm có nội dung tình cảm cao thượng và chất trữ tình sống động. Nhận xét, đánh giá về bà Đờ Xtan, trong một bức thư gửi cho nhà văn Đức Gớt, Sile đã viết “Không có gì là vay mượn, sai lạc và yếu đuối ở bà Đờ Xtan. Bà là tinh thần Pháp đầy trí tuệ và thuần khiết. Bà muốn soi sáng, thâm nhập, đo lường tất cả. Bà không chấp nhận một điều gì tối tăm và tắc tị. Bà kinh sợ chủ nghĩa thần bí và sự mê tín...”. Satôbriăng 1768 – 1848, là nhà văn tiêu biểu của khuynh hướng lãng mạn tiêu cực ở Pháp. Ông xuất thân từ dòng dõi quý tộc từng gia nhập quân bảo hoàng chống lại cách mạng, có xu hướng chính trị bảo thủ, không tin vào sự tiến hóa của lịch sử nhân loại, như các nhà tư tưởng Ánh sáng. Nhiều tác phẩm của ông bảo vệ những tàn tích của chế độ phong kiến và hồi phục cảm hứng tín ngưỡng như “Atala” 1801, “Rơnê” 1802, “Thần lực sáng tạo của đạo Gia tô” 1802, “Những người tử vì đạo” 1809. Ông biểu hiện căn bệnh của thời đại, nỗi buồn nản do bao niềm hi vọng tan vỡ của một thế hệ quý tộc và tiểu tư sản bảo thủ. Satôbriăng là nhà văn lãng mạn có ảnh hưởng rộng rãi ở Pháp và châu Âu đầu thế kỷ XIX khi khai thác sâu sắc cái tôi cô đơn qua các hình tượng sống động và những trang văn xuôi đổi mới, lưu loát và đầy chất thơ. Lamactin 1790 – 1869 là một nhà thơ tiêu biểu của chủ nghĩa lãng mạn Pháp, là tác giả của những tập thơ trữ tình nổi tiếng như “Trầm tư”, “Trầm tư mới”, “Những hài hòa”... Thơ ông thể hiện nhiều tâm trạng khác nhau trong tình yêu nỗi đau đớn trước cái chết của người yêu, nỗi đơn độc, nỗi nhớ khôn nguôi, niềm tin tôn giáo... Có thể nói, Lamactin là người khai phá một giọng thi ca mới, là nhà thơ trữ tình 7 xuất sắc khi nói về thiên nhiên gắn với tâm tình con người, khi nói về sự gặp gỡ giữa những tâm hồn đồng điệu. Vinhi 1797 – 1863, nhà thơ thường hướng về thời đại cổ xưa để tìm đề tài cho tác phẩm. Chính vì phản ứng với thắng lợi của cách mạng và không bằng lòng với chế độ Buôcbông mà ông đã đi tìm những nhân vật trong quá khứ để thể hiện sự hoài nghi và bi quan. Nhân vật của ông hoặc ngã xuống, hoặc đứng bơ vơ với thiên tài của mình hoặc đơn độc trong tình yêu. Vinhi khẳng định một thứ triết lý thất vọng khi ông ca ngợi sự nhẫn nhục và sự yêu thương, hoặc nói về chủ nghĩa hư vô, chủ nghĩa khắc kỉ trong những tác phẩm “Cái chết của con sói”, “Sự nổi giận của Xămxông”, “Đỉnh núi Ôliviê”. Từ những năm 40, Vinhi viết một số tác phẩm có ý nghĩa tiến bộ hơn thể hiện niềm tin tưởng vào lí trí của con người sẽ thắng được tất cả, vì thế ở Vinhi có sự giao thoa của hai khuynh hướng lãng mạn tiêu cực và lãng mạn tích cực. Từ những năm 20, khi các nhà văn lãng mạn tiêu cực nói lên số phận của tầng lớp quý tộc Pháp bị cách mạng tước bỏ đặc quyền chính trị và kinh tế thì đã xuất hiện những nhà văn lãng mạn tích cực với tư tưởng xã hội và nghệ thuật tiến bộ. Họ công kích sự khắt khe của chủ nghĩa cổ điển, đòi hỏi biểu hiện tự do cá nhân, muốn mở rộng chân trời nghệ thuật, lên án chủ nghĩa thần bí và thơ văn hoài cổ của các nhà văn lãng mạn tiêu cực, chống lại khuynh hướng chỉ nhìn “mặt tội lỗi, thấp kém” của xã hội, đề ra nhiệm vụ văn học cần tìm tòi “cái đẹp và điều tốt lành” trong cuộc sống. Năm 1826, đứng ra thành lập Tao đàn quy tụ phần lớn những nhà văn lãng mạn tiến bộ ưu tú gắn bó với cuộc đấu tranh chính trị và xã hội đương thời; đưa ra nguyên tắc cho trường phái của mình, trong đó khẳng định sự tự do tuyệt đối trong sáng tác. 2. Tiếp đến là sự xuất hiện khuynh hướng lãng mạn tích cực, bao gồm hầu hết tác phẩm xuất bản sau những năm 30 của thế kỷ XIX. Huygô 1802 – 1885, là nhà văn lãng mạn tiến bộ ưu tú của nước Pháp. Huygô được coi là hiện thân của chủ nghĩa lãng mạn. Ông xuất hiện như một ngôi sao mọc sớm và lặn rất muộn ở chân trời của thế kỉ XIX. Ngay từ đầu, thiên tài ấy đã tự khẳng định mình như chủ súy của trường phái lãng mạn một cách mãnh liệt và cường tráng. Cho tới khi chủ nghĩa lãng mạn đã qua thời vàng son của nó thì bản thân Huygô vẫn làm mờ nhạt tài năng của nhiều “chủ nghĩa” đang nở ra và tàn đi rất mau chóng ở cuối thế kỷ, đến nỗi họ phải than rằng “cây sồi già xanh ngắt cho đến lúc chết” ấy đã làm cớm cả một vùng bao quanh. Trong hơn 60 năm sáng tác, ông để lại hơn 20 vở kịch, 10 tiểu thuyết lớn và truyện vừa, 15 tập thơ gồm câu thơ, hàng trăm bài chính luận, lí luận văn chương, hàng nghìn bức thư tình là những áng văn hay và vài ba nghìn tranh vẽ. Sự phong phú về sáng tác của Huygô có nguồn gốc từ sự liên hệ chặt chẽ của nhà văn với đời sống, sự tham gia trực tiếp vào các phong trào chính trị văn hóa tiến bộ. Nội dung sáng tác của Huygô rất phong phú. Trước hết nói về thơ. 8 Những tập thơ đầu đã rung lên niềm yêu thương với quá khứ xa xăm hoặc những miền đất lạ. Những tập thơ trữ tình xuất bản sau những năm 30 mở rộng suy tưởng về lẽ sống, tình đồng loại, nỗi đau khổ và sức mạnh của nhân dân. Những tập thơ chiến đấu và hùng ca từ những năm 50 vươn đến tầm khái quát xã hội, phân biệt nước Pháp của nhân dân lao động nghèo khổ và nước Pháp của bọn giàu sang quyền quý. Có thể nói, tình yêu thương con người khốn khổ bị đọa đày như được gieo mầm khắp các tập thơ để kết đọng tạo thành rung động âm vang qua các hình tượng lớn trong tiểu thuyết và kịch. Thơ đi vào tiểu thuyết, kịch dựa vào thơ. Sự phối hợp trữ tình giữa các yếu tố nghệ thuật đó đã giao hòa tình thương cảm giữa tác phẩm và người đọc, gây ấn tượng mạnh mẽ về tấm lòng nhân đạo bao la của Huygô. Qua những tập thơ, vở kịch, nhất là những bộ tiểu thuyết để đời như “Những người khốn khổ”, “Nhà thờ đức bà Pari”, Huygô gieo vào đó một niềm tin rằng lòng thương yêu tuyệt đối có khả năng tiêu diệt điều ác và mang lại hạnh phúc trong tương lai cho số phận những người khốn khổ. Những rung động đầy chất thơ được nâng lên sự suy tưởng có tính chất triết lý đó giải quyết vấn đề xóa bỏ nỗi đau khổ của nhân loại trong thời kỳ hiện đại. Gioocgiơ Xăng 1804 – 1876. Sáng tác của bà viết về đề tài tự do yêu đương, nhằm bênh vực quyền sống của người phụ nữ, quyền bình đẳng nam nữ trong hôn nhân và gia đình. Bà lên án những định kiến xã hội, những nguyên tắc cổ hủ của giới thượng lưu đã trói buộc người phụ nữ. Bà tiếp thu lí thuyết của chủ nghĩa xã hội không tưởng, bà tham gia các hoạt động chính trị. Các tiểu thuyết của bà thời kỳ này chuyển từ đề tài cá nhân sang đề tài xã hội, thể hiện nhiệt tình đấu tranh vì lợi ích của nhân dân, mô tả những phẩm chất tốt đẹp và cuộc đấu tranh chống áp bức bất công của người lao động. Tuy nhiên, nhà văn lãng mạn vẫn mơ ước hòa giải những xung đột giai cấp bằng tình yêu thương. Trong “Thư gửi Flôbe” bà viết “Cuộc sống của chúng ta là để yêu thương và không yêu nữa có nghĩa là không sống nữa mà thôi”. Anfrê đơ Muyxê 1810 – 1857. Ông làm thơ, viết văn, viết kịch nhưng trước hết là một nhà thơ. Ông xa lánh lối thơ thần bí, sùng đạo của chủ nghĩa lãng mạn phản động, mạnh dạn phá vỡ những quy tắc của thơ ca cổ điển. Ông phủ nhận nghệ thuật trừu tượng của các nhà thơ cổ điển mới, thấy trong thơ ca cần có sự tuôn trào chân thực của cảm xúc. Ông từ bỏ việc mô tả vẻ đẹp rực rỡ bên ngoài để đi sâu vào vực thẳm của con tim. Ông muốn “nhà thơ không viết một chữ nào nếu toàn thân không rung động”. Ông đi tìm lẽ sống trong tình yêu, một tình yêu mang sắc thái một lý tưởng tự do có tính chất mơ hồ. Là một nhà văn lãng mạn tiến bộ với “trái tim hào hiệp”, ông căm ghét chế độ chuyên chế và “say mê tự do”. Suốt đời Muyxê đã đi tìm lý tưởng và hạnh phúc chân chính nhưng không hề thành đạt. Tác phẩm thơ, truyện, kịch của ông đã phản ánh trung thực tấn bi kịch của tâm hồn, là những áng văn sinh 9 động và sâu sắc chứng minh căn bệnh của thời đại. Tác phẩm của Muyxê đã có những điểm gặp gỡ nội dung sáng tác của các nhà văn hiện thực giữa thế kỷ XIX khi ông biểu hiện và tố cáo hiện thực theo phong cách của ông, qua lăng kính một “nhà thơ của tình yêu và đau khổ”. Như vậy, có thể nói, văn học lãng mạn Pháp ra đời và phát triển trên cơ sở những biến động lịch sử lớn từ cuối XVIII và nửa đầu XIX, dưới ảnh hưởng của tư tưởng lãng mạn trong triết học, văn học của các nước châu Âu như Đức, Anh. Sự vận động, phát triển của chủ nghĩa lãng mạn cho thấy sự song hành giữa lý luận phê bình và sáng tác, sự đan xen khá phức tạp của hai khuynh hướng lãng mạn tích cực và tiêu cực nhằm phản ánh một hiện thực cuộc đấu tranh quyết liệt và phức tạp trong 30 năm đầu thế kỷ XIX ở Pháp. Cũng giống như văn học lãng mạn châu Âu, văn học lãng mạn Pháp cũng thoát khỏi quy tắc ngặt nghèo của truyền thống văn học cũ, đề cao tưởng tượng và cảm xúc chủ quan của người viết, cách tân loại thể... Song vẫn có những đặc điểm riêng ít tính chất tư tưởng, triết lí phức tạp như văn học lãng mạn Đức, ít khơi sâu vào các nguồn văn học dân gian như ở nhiều nước, ít tính chất anh hùng ca như văn học lãng mạn Nga và Tây Ban Nha. Đặc sắc của văn học lãng mạn Pháp là khuynh hướng lãng mạn tiến bộ chiếm ưu thế tồn tại khá lâu với nội dung phong phú; tính chất trữ tình xuyên suốt trong thơ, kịch, tiểu thuyết; giữa văn học lãng mạn và nghệ thuật lãng mạn như hội họa, âm nhạc luôn tồn tại sự ảnh hưởng qua lại... 10 CHƯƠNG II ĐẶC TRƯNG CỦA CHỦ NGHĨA LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC THẾ GIỚI Vì chủ nghĩa lãng mạn vừa là một trào lưu văn học nghệ thuật, vừa là một phương pháp sáng tác văn học nên thiết nghĩ, để làm rõ đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn như một trào lưu văn học, cần tìm hiểu cụ thể về nó trước hết như một phương pháp sáng tác với những nguyên tắc sáng tác riêng. Mỗi trào lưu, trường phái văn học ngay từ khi hình thành đã phải chú ý đến phương pháp sáng tác riêng của mình. Cuộc đấu tranh giữa các trào lưu, trường phái văn học không nằm ngoài cuộc đấu tranh phân biệt cách tiếp cận đối tượng thẩm mỹ và tư tưởng thẩm mỹ khác nhau, mà đối tượng và tư tưởng thẩm mỹ khác nhau lại biểu hiện kiểu sáng tác khác nhau, do đó, có các phương pháp sáng tác khác nhau. Cơ sở đó cho phép khẳng định rằng, phương pháp sáng tác là vấn đề sống còn của mỗi trào lưu, trường phái văn học. Không xây dựng được một phương pháp sáng tác riêng, coi như không có trào lưu, trường phái sáng tác riêng. Như vậy là phương pháp sáng tác đánh dấu sự có mặt, sự phát triển, vị thế của trào lưu, trường phái văn học trong nền văn học một dân tộc hay toàn nhân loại. Theo đó, phương pháp lãng mạn có những nguyên tắc sáng tác riêng của nó. Cuốn “Lí luận văn học” do Hà Minh Đức chủ biên cho rằng phương pháp lãng mạn có ba nguyên tắc sáng tác. Nguyên tắc thứ nhất Chối từ thực tại. Xuất phát từ thái độ “nguyền của thực tại”, “tuyên bố mối thâm thù vĩnh viễn không đội trời chung với thực tại” Biêlinxki, các nghệ sĩ lãng mạn tự cho mình đứng lên trên hoàn cảnh. Vì vậy, khi xây dựng hình tượng, họ thường ít chú ý đến yêu cầu của khách quan mà chủ yếu dựa vào ý muốn chủ quan. Các chi tiết cụ thể, chân thực, lịch sử đều bị đẩy xuống bình diện thứ yếu, các nhân vật thường được khoác cho vầng hào quang đầy tính chất huyền thoại. Nguyên tắc thứ hai Tự do bay lượn trong nghệ thuật. Các nghệ sĩ lãng mạn chủ trương “nghệ thuật vị nghệ thuật”, nghệ thuật “không đi giầy đỏ, đội mũ đỏ”nghệ thuật không liên quan gì đến chính trị mà đặt lên hàng đầu vấn đề “tự do cá nhân”, “tự do sáng tác”. Họ chối từ “đơn đặt hàng của xã hội” mà chỉ chấp nhận “đơn đặt hàng của trái tim”. - chủ súy của trào lưu lãng mạn đã khẳng định chủ nghĩa lãng mạn là “chủ nghĩa tự do trong văn học” Tựa “Héc-na-ni”– 1930. Nguyên tắc chứ ba Điển hình hóa tâm trạng. Khác với chủ nghĩa hiện thực coi hiện thực trực tiếp là đối tượng của nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn lấy “cái tôi nội cảm” của người nghệ sĩ làm thước đo. Vì thế nghệ thuật với họ không phải là “tấm gương phản chiếu” cuộc đời mà là phương tiện 11 bộc lộ tâm trạng. Họ không chủ trương tìm mối liên hệ biện chứng giữa tính cách và hoàn cảnh mà miêu tả tùy thuộc vào tâm trạng, cảm hứng của mình. Nhân vật lãng mạn thường chỉ rõ ở gương mặt tâm trạng, còn gương mặt thực tế thì rất mờ nhạt. Những nguyên tắc sáng tác trên có mặt và chi phối tác phẩm cụ thể của những nghệ sĩ lãng mạn, tạo nên những đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, khiến cho chủ nghĩa lãng mạn vượt qua giới hạn tồn tại chật hẹp của một quốc gia và sự hạn chế của hoàn cảnh lịch sử mà nó ra đời, trở thành một hiện tượng văn học “độc nhất vô nhị” trên thế giới. Nói đến đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn là nói đến cái riêng, cái đặc thù, cái chỉ tồn tại trong bản thân chủ nghĩa lãng mạn, chứ không tồn tại trong những hiện tượng văn học khác. Bởi vậy, nếu nói đặc điểm thì cần chỉ ra đầy đủ, nhưng đặc trưng thì chỉ là những gì điển hình nhất, bản chất nhất, mà thôi... Xưa nay, nghiên cứu về đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, có nhiều quan điểm khác nhau. Theo chúng tôi, về chủ nghĩa lãng mạn nên tập trung vào những đặc trưng cơ bản sau I. Đặc trưng về nội dung 1. Sắc thái chủ quan sâu sắc, cảm xúc đậm đặc. Bản chất của sáng tạo nghệ thuật là mang tính chủ quan, tuy nhiên sắc thái chủ quan biểu hiện trong từng trào lưu, phương pháp sáng tác thì không giống nhau. Nếu chủ nghĩa cổ điển đề cao lý trí, coi thường yếu tố cảm xúc, khẳng định lý trí là “ngọn nguồn duy nhất của sự trong sáng và giá trị”, chủ nghĩa hiện thực coi trọng tính chân xác, quy luật của đời sống đến mức nhà văn phải cố gắng “đóng cũi sắt tình cảm” của mình, thì chủ nghĩa lãng mạn lại mang sắc thái chủ quan và yếu tố cảm xúc vô cùng đậm đặc. Không phải văn học lãng mạn không quan tâm gì đến hiện thực cuộc sống, nói cho đúng thì tâm trạng lãng mạn trước hết cũng bắt nguồn từ đời sống, từ thái độ nuối tiếc quá khứ vàng son và bất mãn, bất lực trước hiện tại. Các nhà văn lãng mạn tiêu cực vốn xuất thân từ tầng lớp quý tộc thì phản ánh ý thức hệ của giai cấp tư sản bị cách mạng tư sản tước đoạt quyền lợi và đẩy ra khỏi đời sống chính trị. Các nhà văn lãng mạn tích cực vốn đang tràn đầy ước mơ về một tương lai tốt đẹp thì cũng sớm thất vọng về những thành quả của cách mạng vì những gì mà họ nhận được toàn là ngang trái, bất như ý... Tuy nhiên, mục đích của chủ nghĩa lãng mạn không phải là phản ánh hiện thực mà thể hiện tình cảm chủ quan của người nghệ sĩ. Khi những chuẩn mực cộng đồng trong chủ nghĩa cổ điển vừa mới sụp đổ thì cũng là lúc cái tôi lãng mạn được khẳng định và thăng hoa. Có lẽ vì vậy nên các nhà nghiên cứu văn học lãng mạn đã đúng khi cho rằng “Trên ý nghĩa bản chất nhất, hẹp nhất, chủ nghĩa lãng mạn chính là thế giới 12 nội tâm chủ quan của con nguồi, là cuộc sống bí mật của tâm hồn anh ta” Biêlinxki và “Cái nổi bật nhất, đặc trưng bản chất nhất của chủ nghĩa lãng mạn là tính chủ quan” Chu Quang Tiềm. Đặc trưng này của chủ nghĩa lãng mạn thể hiện rõ trong việc xây dựng lên hình ảnh của nhân vật trữ tình buồn và cô đơn. Sống trong chế độ xã hội với những bất ổn, bất công, con người tỏ ra bất lực khi không thể hành động để thay đổi dòng chảy lịch sử, cũng lại không thể hòa hợp được với xã hội ấy. Họ thường có thái độ bất định, dễ bi quan, tuyệt vọng. Ở họ có nỗi buồn vô cớ, họ thích dòng nước mắt, cho rằng cái đẹp chính là giọt lệ của con người. Họ thường tìm đến những đề tài khác nhau để miêu tả, nhưng không phải để tìm quên, để cho vơi nỗi sầu mà đó chính là những nẻo đường đưa họ tìm đến và ẩn sâu trong nỗi sầu của mình. Vì thế, trên những trang văn lãng mạn, ta thường bắt gặp hình ảnh một nhân vật trữ tình, cái tôi buồn và cô đơn. Cái buồn, sự cô đơn thường gợi cho người ta liên tưởng đến sự ốm yếu. Có lẽ bởi vậy Gớt đã gọi “cổ điển là khỏe mạnh, còn lãng mạn là ốm yếu” chăng ? Để thoát khỏi thực tại, nghệ sĩ lãng mạn đào sâu vào cái tôi cô đơn. Trên hành trình đó, họ tìm đến tình yêu như một tất yếu. Bởi lẽ “làm sao sống được mà không yêu, không nhớ không thương một kẻ nào”. Tình yêu là nơi con người có thể biểu hiện rõ nhất cái tôi cá nhân. Song tình yêu trong văn học lãng mạn thường là tình yêu dang dở, thứ tình không dễ gì đơm hoa kết trái bởi những rào cản của định kiến, lề lối và đôi khi tan nát bởi nguyên nhân thật vu vơ. Tình yêu vì thế đi liền với nỗi đau, với bi kịch. Trong tiểu thuyết “Atala” và “Rơ nê”, Satôbriăng miêu tả tình yêu vừa day dứt vừa đau khổ của Atala khi vừa yêu Sacta vừa muốn giữ trọn lời thế hiến dâng cuộc đời cho Chúa “Atala”; và chàng Rơ nê khi thì đắm chìm trong nỗi u sầu triền miên, khi thì lao vào mối tình mù quáng với Amêli để cuối cùng đưa người tình vào nhà tu và bản thân thì cô đơn lang thang giữa rừng hoang và thác dữ ở Bắc Mĩ “Rơ nê”. Còn Lamactin, sau khi người tình là Juyli chết vì bệnh, mối tình sâu sắc vừa nảy nở đã vội chấm dứt, đã viết những tập thơ trữ tình nổi tiếng “Trầm tư”, “Trầm tư mới”... thể hiện những cung bậc cảm xúc qua các thời kỳ khác nhau nỗi đau đớn trước cái chết của người yêu “Bên hồ”, “Sự bất tử”, nỗi đơn độc khi còn lại “một mình”, nỗi nhớ khôn nguôi khi nhớ về “chiều kỉ niệm”... Ngay cả trong tiểu thuyết “Nhà thờ Đức bà Pari” của nhà văn lãng mạn tiến bộ V. Huygô, mối tình của Cazimôđô với Exmêranđa mãnh liệt là thế mà cuối cùng cũng rơi vào hư vô. Không thể tìm thấy hạnh phúc ở trần gian, họ chỉ có thế gặp nhau dưới nấm mồ. Ngoài tình yêu, nhà văn lãng mạn cũng tìm đến thiên nhiên. Thiên nhiên cũng là một đề tài lớn của văn học lãng mạn. Về với thiên nhiên, người ta quên đi bộ mặt xã hội, quên đi những phiền nhiễu của thế gian. Nhà thơ lãng mạn thích trầm tư, trở về với nội tâm mà thiên nhiên như một tấm gương để anh ta dễ soi rọi. Chủ nghĩa lãng 13 mạn đề cao cảnh sắc tráng lệ của đại tự nhiên, lấy đại tự nhiên làm đối tượng biểu hiện chủ yếu, đó là những cảnh núi cao hùng vĩ, biển rộng mênh mông, phong cảnh điền viên thuần phác, yên tĩnh. Đúng là “trời đất tự nhiên này phải đợi đến chủ nghĩa lãng mạn thế kỷ XIX mới có được sự khai thác phong phú và chi tiết”. Đêm tối cũng là đề tài phổ biến của nhiều nhà thơ lãng mạn. Vì đêm là người bạn trầm tư yên tĩnh để nhà thơ bộc bạch nỗi lòng của mình. V. Huygô đối diện với “Đêm đại dương” để suy tưởng về những người thủy thủ, thuyền trưởng đã chết. A. Muyxê có một chùm thơ về “Đêm” “Đêm tháng Năm”, “Đêm tháng Tám”, “Đêm tháng Mười”. Trong “Đêm”, vừa bộc lộ sự đau khổ, vừa ánh lên lòng yêu đời, ý thức trách nhiệm với cuộc đời, thậm chí “Đêm” còn làm cho nhà thơ trải nghiệm cảm giác mình sẽ lớn lên trong đau khổ. Với chùm thơ “Đêm”, Muyxê được đánh giá “là một nhà thơ, gần như là một người duy nhất trên thế giới đã biết, bằng tiếng Pháp, thể hiện lại các âm thanh rất con người của tiếng nấc” Lui Aragông. Nghệ sĩ lãng mạn cũng thường hoài niệm về quá khứ và thể hiện tín ngưỡng tôn giáo, điển hình là trường hợp Satôbriăng. Ông ca ngợi đạo Gia tô “Trong tất cả những tôn giáo đã tồn tại thì đạo Gia tô là thơ mộng nhất, nhân đạo nhất, hòa hợp nhất với tự do, nghệ thuật văn chương; tất cả thế giới đều cần đến nó, từ công việc nông trang cho đến những khoa học trừu tượng, từ những nhà cứu tế cho kẻ khốn cùng đến những cung điện do Mikelănggiơ xây dựng và Raphaen trang hoàng...”. Một số bài thơ của Lamactin như “Niềm tin”, “Tuần lễ thánh”, “Chúa”, “Lời nguyện cầu”... cũng thể hiện niềm tin tôn giáo mỗi khi con người bị rơi xuống vực thẳm của sự đau khổ. Tôn giáo không đơn thuần chỉ là một tín ngưỡng mà nhiều khi còn trở thành cứu cánh của cả cuộc đời. 2. Tinh thần vươn lên trên thực tại, hướng về lý tưởng Rất khác so với tinh thần chú trọng hiện thực, nhìn thẳng vào sự thật, trung thành với hiện thực của chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa lãng mạn luôn truy tìm lý tưởng với tinh thần vượt lên trên thực tại, dùng lý tưởng chủ quan thay thế hiện thực khách quan. Silơ cho rằng chủ nghĩa lãng mạn “lấy lý tưởng đẹp đẽ để thay thế hiện thực thiếu thốn”. Còn nữ sĩ thì “cảm thấy tất yếu phải dựa theo hi vọng của tôi đối với nhân loại, dựa theo cái mà tôi tin là nhân loại nên có để viết về nó”. Đối thoại với nhà văn hiện thực, một lần nữa nữ văn sĩ khẳng định “Ông muốn miêu tả con người như mắt ông nhìn thấy nó, còn tôi cố miêu tả con người như tôi muốn thế, như tôi muốn nó phải trở thành”. Như vậy, nếu cần tìm một hiện thực trong tác phẩm lãng mạn, vẫn có, chỉ có điều hiện thực đó mang tính đặc thù, đó là hiện thực của tưởng tượng, của mơ ước, của thế giới chủ quan chứ không phải hiện thực như nó vốn có ngoài cuộc sống. Nó vượt ra ngoài, vượt lên trên cuộc sống bình thường vì đó là một cuộc sống lý tưởng. 14 Tất nhiên, diện mạo của thế giới mộng tưởng trong văn học lãng mạn cũng khá phong phú, không thuần nhất. Ở nhà văn lãng mạn tiêu cực, đó là một cuộc sống từ thời cổ xưa, điển hình như Vinhi trong các tác phẩm “Môizơ”, “Ê loa”, “Xanhmac”, “Stenlê”, “Sattơctơn”, “Đaphnê” đã hướng về thời cổ xưa, mô tả số phận của những nhà quý tộc trẻ thời Risơliơ hoặc các bậc tiên tri trong kinh thánh. Còn ở những người lãng mạn tích cực thì họ không hòa hoãn, thỏa hiệp với thực tại nên họ mong muốn thiết lập nên môi trường xã hội lý tưởng đảm bảo hạnh phúc của con người. mong muốn xây dựng nên một xã hội mà trong đó xung đột giai cấp được hòa giải bằng tình thương yêu. Trong sáng tác của mình bà thường miêu tả cuộc sống nơi đồng quê bình lặng, với những người nông dân chất phác, hồn nhiên trong sáng cùng những chuyện tình mơ mộng, thủy chung, đó chính là “lí tưởng về sự ấm cúng và chất thơ” của cuộc sống bình dị. Bà lảng tránh vấn đề xung đột giai cấp ở nông thôn và cách giải quyết vấn đề đó bằng bạo lực cách mạng. Sáng tác của V. Huygô có lẽ là điển hình hơn cả trong việc xây dựng nên một hiện thực trong mơ ước, trong tưởng tượng, nhất là trong bộ tiểu thuyết “Những người khốn khổ”. Tác phẩm được đánh giá như môt “trái núi” lừng lững giữa văn đàn Pháp và thế giới, không chỉ bởi một dung lượng đồ sộ, tầm vóc sử thi mà còn bởi nhà văn đã gieo vào đó những vấn đề có ý nghĩa tiến bộ, nhân văn với toàn nhân loại cho đến ngày nay - vấn đề tình thương yêu. Nhưng tại thời điểm tác phẩm ra đời, đó vẫn là những điều xa vời mà con người chưa thể đạt tới. Vì thế, nó vẫn lấp lánh trong vòng hào quang của lý tưởng. Được viết khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đang dần thay thế cho trào lưu lãng mạn, bộ tiểu thuyết lãng mạn kiêm hiện thực này không thiếu những phần phủ nhận xã hội, những chi tiết hiện thực miêu tả cuộc sống lầm than của những kiếp người “dưới đáy”, song phần chủ yếu vẫn là khẳng định thế giới lý tưởng của nhà văn. Trong thế giới lý tưởng đó, Huygô dùng tình yêu thương để hòa giải các xung đột, nâng đỡ những người khốn khổ. Hình tượng trung tâm tỏa sáng nhất tạo nên linh hồn của “Những người khốn khổ”, mang thông điệp của Huygô chính là Giăng Van Giăng. Cũng là người khốn khổ từng phạm tội, nhưng chính nhờ có “ánh sáng của đôi chân nến bạc” hay chính là sự bao dung, tình thương của Đức giám mục Myrien, Giăng Van Giăng đã được cảm hóa, trở thành người lương thiện; hơn thế còn giống như một vị thánh, đem “phép màu” đến cho cuộc sống của con người với tinh thần xả thân vì điều thiện, vị tha đến mức quên mình. Cả thế giới “những người khốn khổ” nhận được tình thương yêu của Giăng Van Giăng, nhất là Phăngtin và Côzet. Vì mẹ con Côzet, Giăng Van Giăng hết lần này đến lần khác hi sinh cho đến lúc chết. Vì Phăngtin, ông đi tìm và chuộc Côzet khỏi tay Tênacđiê. Vì hạnh phúc của Côzet, ông không quản ngại nguy hiểm, lao ra cứu Phơbuyt... Giăng Van Giăng đã sống một cuộc đời đầy khổ ải, gian 15 truân nhưng là cuộc đời đầy ý nghĩa được dệt nên bằng bao nhiêu vẻ đẹp và đức thiện, cho đến chết vẫn âm thầm lặng lẽ hiến trọn vẻ đẹp và đức thiện đó. Trong tác phẩm “Nhà thờ đức bà Pari”, Huygô đã tô đậm cái ngoại lệ để biểu hiện lý tưởng. Ông đã vẽ ra hình ảnh của nàng Exmêranđa – một thiếu nữ Bôhêmiêng đột ngột và huyền bí xuất hiện như một thiên thần đi giữa những khuôn mặt cau có. Cazimôđô dù mang đủ mọi tật nguyền gù, thọt, chột nhưng vẫn tỏa ánh hào quang lấp lánh bên trong, đó là một tình yêu nồng nàn, say đắm bất chấp cả cái chết. Tất nhiên, trong sáng tác của thế giới được vẽ lên dù lý tưởng cũng không hoàn toàn thoát ly hiện thực. Đây đó trong tác phẩm, người ta vẫn nghe thấy những tiếng rên xiết vì đau khổ của những con người sống “dưới đáy” cùng của xã hội. Điều đó chứng tỏ xét về cái nhìn xã hội vẫn đầy tính hiện thực, ông chỉ lãng mạn trong việc đưa ra giải pháp cải tạo, điều hòa xung đột trong hiện thực mà thôi. Hay nói đúng hơn, điều lý tưởng mà Huygô mơ ước trong tác phẩm vượt lên trên thời đại sống của ông, là một viễn cảnh tương lai mà cho đến ngày nay nhân loại tiến bộ vẫn đang trên hành trình đạt đến nó. II. Đặc trưng về nghệ thuật biểu hiện Tưởng tượng mãnh liệt, thủ pháp đối lập, khoa trương đặc biệt, tình tiết vượt lên trên hiện thực... là những nghệ thuật biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa lãng mạn. Không nói đến những tác phẩm có thiên hướng chạy theo hình thức, xem thường yếu tố nội dung, đại đa số tác phẩm lãng mạn rất phong phú, đa dạng về thủ pháp biểu hiện. Điều này dễ khiến cho tác phẩm lãng mạn trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt với độc giả. tượng là một trong những yêu cầu không thể thiếu trong năng lực, phẩm chất nhà văn, là cơ sở để tổ chức sắp xếp, nhào nặn nên tác phẩm. Nhưng ở văn học lãng mạn, hơn đâu hết, càng cần phải có sự tưởng tượng mãnh liệt vì muốn xây dựng nên một thế giới lý tưởng, không có trong thực tại, nghệ sĩ lãng mạn phải dùng tưởng tượng phong phú để hình dung và mô tả. Tưởng tượng giúp nhà văn lãng mạn hướng đến những không gian vượt ra ngoài sự tồn tại của mình, nơi mà chưa bao giờ, không bao giờ có thể đặt chân đến. Đó là những quá khứ đã lùi xa, là thế giới của đường xa xứ lạ, thế giới của những điều quái dị, siêu nhiên, của Thượng đế, quỷ Xatăng, Thiên đường và Địa ngục... Nhà văn lãng mạn thỏa sức phiêu lưu trong trường tưởng tượng của mình để tự tách mình ra khỏi thực tại tầm thường, thỏa mãn cái tôi đang bị “tổn thương” sâu sắc... 2. Để làm được điều đó, đương nhiên nhà văn lãng mạn phải dùng đến những tình tiết phi thường, thủ pháp khoa trương để hỗ trợ và cụ thể hóa tưởng tượng. Tình tiết phi thường là những tình tiết vừa khác bình thường, vừa vượt lên trên cái bình thường. Nếu “cái hàng ngày” là chất liệu chính để xây dựng hình tượng điển hình của 16 chủ nghĩa hiện thực thì tình tiết phi thường chính là chất liệu chủ yếu để nhà văn lãng mạn xây dựng nên những hình tượng lãng mạn và nhào nặn hiện thực lý tưởng, hiện thực của ước mơ. Xuất phát từ quan niệm “cái bình thường là cái chết của nghệ thuật”, Huygô cũng giống như nhiều nhà văn lãng mạn khác, tạo ra những cái ngoại lệ, tuyệt đối, cực đoan rồi phóng đại thêm lên để biểu hiện một cuộc sống lý tưởng, những con người lý tưởng như mình mong muốn. Ví như để tạo ra nhân vật lý tưởng Giăng Van Giăng thể hiện mơ ước về một xã hội tốt đẹp, Huygô đã sáng tạo ra những chi tiết phi thường về nhân vật từ ngoại hình, sức khỏe, hành động cho đến tính cách. Tất cả đều lấp lánh hào quang của lý tưởng, vượt lên rất xa so với những gì có thực. Khi xây dựng các nhân vật tiêu cực, bút pháp ấy vẫn nhất quán, chỉ có điều, thay vì đồng nhất hóa cái phi thường với các lý tưởng thì cái ngoại cỡ đã được đẩy lên đến cực đoan, các ngoại cỡ đã bị đồng nhất hóa với cái kỳ quặc. Nhân vật Giave trong “Những người khốn khổ” của Huygô là một loại nhân vật như thế “Cha hắn vượt ngục, hắn cũng bắt, mẹ hắn phạm pháp hắn cũng cứ tố cáo. Hắn làm công việc ấy một cách đắc ý như người ta làm việc thiện”. 3. Đối lập cũng là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc và đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn. Xét từ cội nguồn, chủ nghĩa lãng mạn hình thành là do sự đối lập giữa cái tôi nghệ sĩ với thực tế xã hội. Vì thế, đối lập trước hết có thể hiểu là tâm thế của người nghệ sĩ trước thực tại, và sau đó biểu hiện cụ thể trong tác phẩm ở những cấp độ khác nhau. Thứ nhất, đó là sự đối lập giữa nhân vật lãng mạn với hoàn cảnh sống. Trong nhiều sáng tác của Vinhi người ta thấy những nhân vật tài năng xuất chúng của ông thường không thể hòa hợp với môi trường sống, kết cục là họ hoặc ngã xuống như Xanhmac, hoặc đứng bơ vơ với thiên tài của mình như Môizơ, hoặc đơn độc trong tình thương, tình yêu như Siva, Xămxông... Nhân vật của Vinhi mang theo những hoài nghi và bi quan của chính ông về cuộc đời nên cảm thấy con người xung quanh thì bàng quan hay thù nghịch, thiên nhiên thì hoang vắng lạnh lùng; và nếu có Chúa tồn tại thì Chúa “câm, mù, điếc”. Hay trong tác phẩm “Tâm sự của một đứa con thời đại” của nhân vật Ôctavơ tiêu biểu cho một thế hệ thanh niên, sinh ra và lớn lên sau cách mạng 1789 chỉ thấy một thế giới hoang tàn và có bao nhiêu người khác cùng đau khổ như mình. Chàng nghi ngờ tất cả và muốn gào lên trước sự trống rỗng của cuộc đời. Đáng tiếc là con người ý thức sâu sắc về tệ nạn của xã hội, đối lập mình với hoàn cảnh, căm ghét hoàn cảnh thối nát đó cuối cùng lại thỏa hiệp với hoàn cảnh, bị hoàn cảnh nhấn chìm. Thứ hai, đó là sự đối lập giữa các nhân vật đại diện cho các tầng lớp, biểu thị những lý tưởng xã hội khác nhau, mang những tính cách khác nhau. Sự đối lập giữa 17 Giăng Van Giăng với Giave là sự đối lập giữa thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, cao cả và thấp hèn. Găng Van Giăng suốt đời làm điều thiện, theo tiếng gọi của lương tri còn Giave suốt đời truy tìm để tiêu diệt Giăng Van Giăng, tiêu diệt cái thiện cho bằng được. Cách giải quyết mâu thuẫn này giữa hai nhân vật của tác giả cũng là bằng tình thương yêu, một tư tưởng nhất quán trong toàn bộ tác phẩm. Dù luôn bị Giave truy đuổi như một con mồi, Giăng Van Giăng không thù hận mà đã cứu sống viên thanh tra khỏi tay những người cách mạng để cho hắn đi. Khi Giave vẫn muốn bắt Giăng Van Giăng, ông đã thuyết phục Giave cho mình thời gian để trả Mariuyt người yêu Côzet về gia đình rồi sẽ quay trở lại để cho hắn bắt. Chính lòng tốt của Giăng Van Giăng đã đặt Giave vào một tình trạng vô cùng khó xử. Hắn bị kẹt giữa niềm tin vào luật pháp và niềm tin vào lòng tốt của con người. Không thể giải quyết tình trạng bế tắc đó, Giave đã nhảy xuống sông Xen tự vẫn. Thứ ba, đó là sự đối lập trong bản thân nhân vật. Điển hình nhất cho loại đối lập này trong nhân vật Cazimôđô. Người kéo chuông nhà thờ Đức Bà gây ám ảnh người đọc bởi một ngoại hình vô cùng xấu xí. Cazimôđô mang đủ mọi tật nguyền thọt, chột, gù, giống như một con quỷ trong một lễ hội hóa trang. Nhưng cũng chính Cazimôđô lại gây xúc động cực độ trong lòng người đọc ở vẻ đẹp tâm hồn, ở tình yêu chân thành, nồng nàn, mãng liệt dành cho Exmêranđa. Dụng công của Huygô khi tạo ra sự đối lập ngoại hình với tính cách nhân vật là vừa ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn tình yêu, vừa khắc sâu bi kịch của Cazimôđô. Thứ tư, liên quan đến thủ pháp đối lập, cũng cần nói thêm đôi điều về cái nghịch dị grôtexcơ trong văn học lãng mạn, tập trung chủ yếu ở một số sáng tác của Huygô. Nghịch dị hay grôtexcơ là một “kiểu tổ chức hình tượng nghệ thuật dựa vào huyễn tưởng, tiếng cười, sự phóng đại, lối kết hợp và tương phản một cách kỳ quặc cái huyễn hoặc với cái thực, cái đẹp với cái xấu, cái bi với cái hài, cái giống như thực với cái biếm họa...” “Từ điển thuật ngữ Văn học”. Trong tiểu thuyết “Nhà thờ Đức bà Pari” của Huygô, sự đan chéo những yếu tố bi hài, cái đẹp và cái dị dạng đã mang lại cho câu chuyện tính chất grôtexcơ. Mỗi nhân vật là một sự hài hước bi đát. Pie Granhgoa là sự thất bại của ảo mộng trước nhu cầu vặt vãnh của cuộc sống; Cazimôđô cũng là một loại “đom đóm yêu một vì tinh tú”, sự thiếu hài hòa của anh chẳng những khiến người đàn bà mà cả những con người trần thế này chẳng thể chấp nhận được; Frôlô là sự không thể điều hòa giữa thèm khát và khổ hạnh; Phơbuyt là sự đối lập giữa vẻ đẹp bên ngoài và sự xấu xa trống rỗng bên trong. Và hơn hết là cái kết thúc của thiên tình sử vừa bi đát vừa hài hước bên cạnh đám cưới của Phơbuyt là “đám cưới’ của Cazimôđô và Exmêranđa bộ xương Cazimôđô ôm hôn bộ xương Exmêranđa, điều đó đã “nhấn mạnh tình trạng chưa thể giải quyết của những đối kháng, những tương phản, nhất là về thẩm mỹ và đạo đức” mà Huygô muốn đặt ra qua tác phẩm. 18 Tóm lại tất cả những đặc trưng trên của chủ nghĩa lãng mạn trong văn học châu Âu chứng tỏ chủ nghĩa lãng mạn trước hết là sản phẩm của một thời đại lịch sử cụ thể thế kỷ XIX ở châu Âu, ở Pháp nhưng hơn thế, đây còn là một hiện tượng văn học, văn hóa lớn của thế giới. Từ Pháp, những đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn có tầm ảnh hưởng rộng rãi đến văn học của nhiều quốc gia, trong đó có văn học Việt Nam. Văn học Pháp do sự giao lưu văn hóa đã chảy vào nước ta như một nguồn suối ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam. Tất nhiên, với khả năng đồng hóa, chiếm lĩnh những tinh hoa văn hóa nước ngoài cộng với khả năng “tạo tác”, những nghệ sĩ lãng mạn Việt Nam đã tạo ra một trào lưu văn học lãng mạn giai đoạn 1930 – 1945 với những đặc trưng rất dân tộc, thể hiện tiếng nói của một bộ phận không nhỏ những trí thức dân tộc trong hoàn cảnh bế tắc lầm than của đất nước, tuyệt nhiên không phải một thứ “con lai” mà thực sự là khởi đầu xuất sắc cho quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, đưa văn học Việt Nam tiến những bước dài trên con đường hội nhập quốc tế. 19 CHƯƠNG III TRÀO LƯU LÃNG MẠN TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1930 - 1945 I. Hoàn cảnh ra đời, quá trình phát triển của trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 1. Hoàn cảnh ra đời Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Sau khi bình định xong nước ta về mặt quân sự, chúng ráo riết tiến hành liên tiếp các cuộc khai thác thuộc địa nhằm bóc lột về kinh tế. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong cơ cấu xã hội Việt Nam và ý thức hệ tư tưởng của con người. Văn hóa Pháp, văn hóa châu Âu theo bước chân bọn xâm lược đã ảnh hưởng vào Việt Nam, trong đó hạt nhân của nó là tư tưởng đề cao tự do cá nhân đã có tác động không nhỏ tới cảm xúc, suy nghĩ của người trí thức. Về mặt nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây cùng một số trào lưu khác sau đó như tượng trưng, siêu thực xuất hiện từ một thế kỷ trước đó đã để lại dấu ấn rõ nét và tạo nên một trào lưu nghệ thuật mới trong văn chương, hội họa, âm nhạc Việt Nam, trong đó mạnh mẽ nhất vẫn là ở lĩnh vực văn chương kể từ đầu thập niên 1930 trở đi. Sau ngày 17/6/1930, Nguyễn Thái Học và 12 yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, Pháp đẩy mạnh việc đàn áp khủng bố, bắt bớ tù đày các nhà ái quốc, dập tắt khởi nghĩa. Các phong trào yêu nước cách mạng tạm thời lắng xuống, rút vào hoạt động bí mật. Cuộc khủng bố quy mô toàn quốc những năm 1930 đã gây một không khí hoang mang, lo sợ trong các tầng lớp thanh niên trí thức. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 từ “mẫu quốc” Pháp tràn về Đông Dương thuộc địa như một thiên tai, cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân ngày càng trở nên khó khăn. Điều này càng làm tăng thêm bi quan cho bầu không khí u ám buồn thảm vốn có. Trong bối cảnh đó, những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang tâm trạng chán nản, muốn thoát ly thực tại, xa lánh đời sống chính trị. Lại sẵn ảnh hưởng của tư tưởng tự do cá nhân, họ tạo ra những tác phẩm văn chương với nội dung và mục đích thoát ly thực tại, đào sâu vào thế giới của “cái tôi nội cảm”. Những tác phẩm này được gọi là văn học lãng mạn. Như vậy, sự ra đời của trào lưu văn chương lãng mạn ở Việt Nam giai đoạn 1930 -1945 có tiền đề từ thực tế xã hội cùng nhu cầu bức thiết giải phóng cá nhân, giải quyết được tình trạng bế tắc của giới trí thức trong bối cảnh xã hội bi quan đó. Con đường làm văn học nghệ thuật bằng chủ nghĩa lãng mạn là lối thoát trong sạch, là nơi trú ẩn tương đối an toàn có thể gửi gắm tâm sự, cũng là phương cách để bày tỏ lòng yêu nước. 20
I. Hoàn cảnh ra đời, quá trình phát triển của trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 1. Hoàn cảnh ra đời Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng vào Đà Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược nước ta. Sau khi bình định xong nước ta về mặt quân sự, chúng ráo riết tiến hành liên tiếp các cuộc khai thác thuộc địa nhằm bóc lột về kinh tế. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong cơ cấu xã hội Việt Nam và ý thức hệ tư tưởng của con người. Văn hóa Pháp, văn hóa châu Âu theo bước chân bọn xâm lược đã ảnh hưởng vào Việt Nam, trong đó hạt nhân của nó là tư tưởng đề cao tự do cá nhân đã có tác động không nhỏ tới cảm xúc, suy nghĩ của người trí thức. Về mặt nghệ thuật, chủ nghĩa lãng mạn phương Tây cùng một số trào lưu khác sau đó như tượng trưng, siêu thực xuất hiện từ một thế kỷ trước đó đã để lại dấu ấn rõ nét và tạo nên một trào lưu nghệ thuật mới trong văn chương, hội họa, âm nhạc Việt Nam, trong đó mạnh mẽ nhất vẫn là ở lĩnh vực văn chương kể từ đầu thập niên 1930 trở đi. Xem thêm Vài suy nghĩ về khuynh hướng siêu thực trong Thơ mới 1932 – 1945 Sau ngày 17/6/1930, Nguyễn Thái Học và 12 yếu nhân của Việt Nam Quốc dân đảng lên đoạn đầu đài ở Yên Bái, Pháp đẩy mạnh việc đàn áp khủng bố, bắt bớ tù đày các nhà ái quốc, dập tắt khởi nghĩa. Các phong trào yêu nước cách mạng tạm thời lắng xuống, rút vào hoạt động bí mật. Cuộc khủng bố quy mô toàn quốc những năm 1930 đã gây một không khí hoang mang, lo sợ trong các tầng lớp thanh niên trí thức. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933 từ “mẫu quốc” Pháp tràn về Đông Dương thuộc địa như một thiên tai, cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân ngày càng trở nên khó khăn. Điều này càng làm tăng thêm bi quan cho bầu không khí u ám buồn thảm vốn có. Trong bối cảnh đó, những người trí thức ấp ủ tinh thần dân tộc mang tâm trạng chán nản, muốn thoát ly thực tại, xa lánh đời sống chính trị. Lại sẵn ảnh hưởng của tư tưởng tự do cá nhân, họ tạo ra những tác phẩm văn chương với nội dung và mục đích thoát ly thực tại, đào sâu vào thế giới của “cái tôi nội cảm”. Những tác phẩm này được gọi là văn học lãng mạn. Như vậy, sự ra đời của trào lưu văn chương lãng mạn ở Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 có tiền đề từ thực tế xã hội cùng nhu cầu bức thiết giải phóng cá nhân, giải quyết được tình trạng bế tắc của giới trí thức trong bối cảnh xã hội bi quan đó. Con đường làm văn học nghệ thuật bằng chủ nghĩa lãng mạn là lối thoát trong sạch, là nơi trú ẩn tương đối an toàn có thể gửi gắm tâm sự, cũng là phương cách để bày tỏ lòng yêu nước. 2. Quá trình phát triển Ở các thế kỷ trước, chưa có chủ nghĩa lãng mạn trong các loại hình văn học, mới chỉ thấy mầm mống những yếu tố lãng mạn đậm nét về cảm xúc và biểu hiện ngôn từ. Tính chất lãng mạn thể hiện rõ trong các loại ca hát dân gian như quan họ, ca trù. Qua các làn điệu, giai điệu, lời hát uyển chuyển, duyên dáng, nhân dân lao động như bộc lộ một tâm hồn nhạy cảm trước thiên nhiên cảnh vật, một mơ ước thiết tha về tình yêu, tình người. Đến “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, nội dung căn bản mang tính hiện thực nhưng có chứa đựng những yếu tố lãng mạn sâu sắc về tả cảnh, tả tình. Còn nhu cầu bộc lộ cái tôi khẳng định cái “bản ngã” giữa một nền văn học “phi ngã” cũng đã bắt đầu xuất hiện ở những cá tính sáng tạo như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát… Từ đầu thế kỷ XX đến trước năm 1932, một số tác phẩm có tính chất lãng mạn như “Khối tình con” của Tản Đà, “Một tấm lòng” của Đoàn Như Khuê, “Giọt lệ thu” của Tương Phố, “Linh phượng kí” của Đông Hồ, “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách… đã ra đời dưới sự ảnh hưởng của thi ca lãng mạn Pháp. Nhưng phải chờ tới khi Nhất Linh du học ở Pháp về chủ trương tuần báo “Phong hóa”, thành lập Tự lực văn đoàn, hô hào thay cũ đổi mới; và dấy lên phong trào Thơ mới, thì trào lưu văn chương lãng mạn mới thực sự có mặt trong nền văn học Việt Nam. Như vậy, văn học lãng mạn Việt Nam thực sự xuất hiện như một trào lưu trong giai đoạn 1932 – 1945. Về quá trình phát triển của văn học lãng mạn có thể chia ra ba thời kỳ 1932 – 1935, 1936 – 1939, 1940 – 1945. a Thời kỳ thứ nhất 1932 – 1935 Thời kỳ này, phong trào Thơ mới và văn chương Tự lực văn đoàn, nói chung là thuần nhất, chưa có sự phân hóa sâu sắc như thời kỳ Mặt trận Dân chủ. Nội dung tư tưởng cũng có những yếu tố tiến bộ, tích cực nhất định. Thơ mới thời kỳ này là sự khẳng định những tên tuổi của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên với những bài thơ trong sáng, thấm tinh thần dân tộc như “Nhớ rừng”, “Tiếng gọi bên sông”, “Chùa Hương”, “Con voi già”… Văn chương của nhóm Tự lực văn đoàn cũng xuất hiện một số tác phẩm có giá trị. Những tiểu thuyết “Hồn bướm, mơ tiên”, “Gánh hàng hoa” ca ngợi tình yêu tự do; những tiểu thuyết lãng mạn như “Nửa chừng xuân”, “Đoạn tuyệt” đấu tranh cho quyền sống cá nhân, phê phán đại gia đình phong kiến. Thời kỳ này, ngoài những sáng tác của các tác giả kể trên, để đóng góp vào sự “thắng thế” của văn học lãng mạn, còn phải kể đến vai trò của những cuộc tranh luận văn học sôi nổi được sự tham gia tích cực của văn giới, của nhiều tờ báo Phong hóa, Ngày nay là nơi quy tụ văn chương của các nhà văn, nhà thơ của phong trào văn học lãng mạn gồm có Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ, Huy Cận, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thanh Tịnh; ngoài ra còn các tờ Hà Nội báo, Tiểu thuyết thứ bảy, Tao đàn… Các cuộc tranh luận trên các báo này xoay quanh vấn đề thơ mới – thơ cũ, hôn nhân gia đình, nghệ thuật phục vụ cái gì… b Thời kỳ thứ hai 1936 – 1939 Văn học lãng mạn thời kỳ này có sự phân hóa do tác động của phong trào Mặt trận Dân chủ. Về văn xuôi, một số nhà văn có xu hướng nghiêng về bình dân, trong tác phẩm của họ có nhiều yếu tố hiện thực và nhân đạo Thạch Lam, Trần Tiêu. Một số nhà văn lãng mạn như Nhất Linh, Hoàng Đạo đã quan tâm đến những cảnh “tối tăm”, “bùn lầy nước đọng” ở thôn quê. Năm 1937, Tự lực văn đoàn phát giải thưởng văn học cho “Bỉ vỏ” của Nguyên Hồng, “Kim tiền” của Vi Huyền Đắc, sau đó cho đăng trên báo “Ngày nay”những tác phẩm có nhiều tính chất hiện thực như “Con trâu”, “Sau lũy tre”, “Những ngày thơ ấu”. Một mặt khác, xu hướng cải lương của Tự lực văn đoàn ngày một đậm nét hơn và đi vào tổ chức Hội Ánh sáng. Một số tác phẩm ca ngợi chủ nghĩa cải lương tư sản “Gia đình”, “Con đường sáng”. Một số tác phẩm khác lại lý tưởng hóa hình ảnh người khách chinh phu, con người mê man trong hành động, từ giã gia đình quê hương ra đi, tuy mơ hồ sương khói nhưng hết sức hấp dẫn, quyến rũ “Thế rồi một buổi chiều”, “Đôi bạn”. Về thơ ca nói chung, có sự phân hóa giữa các trào lưu thơ cách mạng, thơ hiện thực, thơ trào phúng. Nhưng riêng trong Thơ mới lãng mạn thì sự phân hóa rất ít, mà chủ yếu đào sâu vào cái tôi cá nhân. Khi phong trào cách mạng của quần chúng rầm rộ lên cao trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, khá đông thanh niên bừng tỉnh một lý tưởng mới thì cái tôi của Thơ mới hiện ra có phần lạc lõng. Nếu đem “gạn đục khơi trong” thì đây đó ta gặp một số yếu tố tích cực trong thơ Nguyễn Bính là vẻ đẹp trong sáng, gần gũi với dân tộc; trong thơ Xuân Diệu là lòng yêu cuộc sống, thái độ “phân vân” trước cuộc sống; trong thơ Huy Cận, Tế Hanh, Lưu Trọng Lư là nỗi đau xót quằn quại, lòng yêu thương trân trọng con người; trong thơ Chế Lan Viên là một tâm sự yêu nước thầm kín xen lẫn thái độ nuối tiếc một thời quá khứ xa xưa… Ở cuối thời kỳ thứ hai này đã thấy những dấu hiệu đi xuống của thời kỳ thứ ba. c Thời kỳ thứ ba 1940 – 1945 Sau năm 1939, phong trào cách mạng bị khủng bố dữ dội, đời sống của các tầng lớp nhân dân sa vào cảnh khó khăn túng quẫn. Các nhà văn lãng mạn, người thì hoang mang dao động, do dự, chờ thời; người thì vùi đầu vào trụy lạc; kẻ thì quay ra hoạt động chính trị thân Nhật Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Văn chương Tự lực văn đoàn và Thơ mới đều sa vào cảnh bế tắc cùng quẫn. Những khuynh hướng tiêu cực ngày càng phát triển. Tự lực văn đoàn cho ra đời những tác phẩm ít nhiều mang màu sắc hiện đại chủ nghĩa “Đẹp”, “Bướm trắng”, “Thanh Đức”… Còn phong trào Thơ mới thì bắt đầu thời kỳ suy thoái của nó với tập “Thơ say” của Vũ Hoàng Chương, tiếp đến là một số tác phẩm khác “Thượng thanh khí” Hàn Mặc Tử, “Vàng sao” Chế Lan Viên, “Kinh cầu tự”, “Vũ trụ ca” Huy Cận, “Mây” Vũ Hoàng Chương, và các tập kịch thơ của Đinh Hùng… Như vậy, có thể nói con đường đi của văn học lãng mạn là con đường ngày càng xuống dốc. Càng gần đến cách mạng tháng 8/1945 thì trào lưu lãng mạn càng bộc lộ rõ những bạc nhược, hạn chế của nó. Nguyên nhân sâu xa là do nghệ sĩ lãng mạn ngay từ đầu đã tách biệt mình khỏi đời sống xã hội, đứng ngoài cuộc đấu tranh lành mạnh giải phóng dân tộc của quần chúng nhân dân. Bởi thế, theo xu hướng của lịch sử và văn học, trào lưu lãng mạn 1930 – 1945 đi vào hồi cáo chung cũng chính là một tất yếu của lịch sử. II. Đặc trưng của trào lưu lãng mạn. Chúng ta không thể phủ nhận rằng trào lưu lãng mạn trong văn học Việt Nam giai đoạn 1930 – 1945 chịu ảnh hưởng sâu sắc từ văn chương thế kỷ XIX của Pháp. Chỉ trong khoảng thời gian mười lăm năm, văn học Việt Nam đã tiếp thu và chịu ảnh hưởng của hơn một trăm năm văn học Pháp, từ trường phái lãng mạn hồi đầu thế kỷ XIX như Huygô, Lamactin, Satôbriăng, Muyxê, Vinhi đến nhóm Thi sơn với Gôtiơ, qua trường phái tượng trưng với Rimbô, Veclen, Malacmê. Tuy nhiên, điều đáng nói là văn học Việt Nam đã không có tính cách ngoại lai, vẫn mang bản sắc riêng chứa đựng tâm hồn Việt. Để tìm hiểu đặc trưng của trào lưu văn học lãng mạn Việt Nam, ta hãy bắt đầu từ quan niệm cho đến thực tiễn sáng tác của các nghệ sĩ lãng mạn. 1. Về quan niệm thẩm mỹ Ở nước ta, các nhà văn lãng mạn ít khi lập thành trường phái và có những tuyên ngôn nghệ thuật riêng. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy được quan điểm thẩm mỹ của họ qua một số bài thơ của Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử…Thực ra, quan điểm mỹ học của các nhà thơ lãng mạn ở nước ta không có gì mới so với các nhà thơ lãng mạn phương Tây. Từ bản nhạc dạo đầu của “Cây đàn muôn điệu” Thế Lữ, người ta đã nghe thấy những thanh âm của chủ nghĩa “nghệ thuật vị nghệ thuật”, đề cao sự tự do tuyệt đối của cái tôi nghệ sĩ khi sáng tác “Không chuyên tâm, không chủ nghĩa nhưng cần chi ? Tôi chỉ là một khách tình si Ham cái đẹp muôn hình muôn vẻ Mượn cây bút nàng Ly Tao tôi vẽ Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca…” Trong cuốn tiểu thuyết “Đẹp”, Khái Hưng cũng lắp lại cái quan niệm cho nghệ thuật là vô tư lợi, không cần phục vụ một mục đích nào cả… Đây cũng là ý kiến của Xuân Diệu trong bài “Lời thơ vào tập “Gửi hương” “Tôi là con chim đến từ núi lạ ngứa cổ hót chơi Khi gió sớm vào reo um khóm lá Khi trăng khuya lên ủ mộng xanh trời Chim ngậm suối đậu trên cành bịn rịn Kêu tự nhiên nào biết bởi sao ca Tiếng to nhỏ chẳng xui chùm trái chín Khúc huy hoàng không giúp nở bông hoa…” Cái buồn cũng thấm sâu vào quan niệm thẩm mỹ của các nhà Thơ mới. Chế Lan Viên đã hết lời ca tụng vẻ đẹp của hạt lệ “Tôi tin chắc vào chân lý của hạt lệ như vào chân lý của ngọc đêm, sương sáng, muối biển, sao trời… Hạt lệ ! Những ngôi tinh lạc rơi từ một vòm trời luôn luôn khuya khoắt là bầu mắt thẳm xuống một trần gian mãi mãi gió sương là lòng đau bát ngát của con người…” Tựa “Vàng sao”. Huy Cận thì cho rằng “cái đẹp bao giờ cũng hơi buồn” “Kinh cầu tự”. Ngoài ra, quan niệm thẩm mỹ của các nhà thơ Hàn Mặc Tử, Bích Khê cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ trường phái thơ tượng trưng, siêu thực của Pháp. Hàn Mặc Tử cho rằng khi thi sĩ sáng tác tức là anh ta ở trong trạng thái mê sảng, chiêm bao “Tôi làm thơ?… Nghĩa là tôi đã mất trí, tôi phát điên” Tựa “Thơ điên” – 1938. Nguyễn Xuân Sanh kết thúc trào lưu lãng mạn bằng quan niệm cao siêu, thuần túy về thơ, gắn liền Thơ với Đạo, cho rằng thơ là “không thuộc lí trí” mà là “hàm súc, tiềm thức, thuần túy”, “Thơ chính là một cách tri thức cao cấp. Nó đã gặp hình nhi thượng, đưa đến tôn giáo”. Quan điểm thẩm mỹ này đã đưa lối thơ bí hiểm của Nguyễn Xuân Sanh trong “Xuân thu nhã tập” đến độ chót của thơ tượng trưng Malacmê, Valơry… Như vậy, mới xét riêng về quan điểm thẩm mỹ đã thấy có sự khác biệt nhất định giữa văn học lãng mạn Việt Nam so với văn học lãng mạn phương Tây. Văn học lãng mạn Việt Nam có tính không thuần nhất, không chỉ ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn Pháp mà ở chặng cuối đường của nó còn ảnh hưởng của trường phái thơ tượng trưng và siêu thực. Điều đó chi phối rất lớn đến thực tiễn sáng tác của các nghệ sĩ lãng mạn, đem đến cho tác phẩm một diện mạo riêng với đặc trưng khó trộn lẫn. Ở một phương diện nhất định, cũng có thể dùng khái niệm “Việt hóa” để nói về văn học lãng mạn Việt Nam so với văn học lãng mạn Pháp. 2. Về sáng tác Nhà thơ Tố Hữu đã nhận xét rất đúng rằng phong trào Thơ mới đã nói lên được “một nhu cầu lớn về tự do và phát huy bản ngã”. Nhận xét này cũng rất đúng với văn xuôi lãng mạn Việt Nam, trong đó điển hình nhất là văn chương của nhóm Tự lực văn đoàn. Trước kia, trong văn học hầu như không cái tôi, mà chỉ có cái ta của cộng đồng. Văn học dân gian là thành quả sáng tác của tập thể, vì thế là tiếng nói chung của cả cộng đồng, điều đó là đương nhiên. Nhưng đến thời kỳ văn học trung đại, khi tác phẩm đã là tiếng nói riêng của một cá nhân, mà tư tưởng cộng đồng, cái ta vẫn bao trùm, ngự trị. Dường như các nhà văn rất ngại nói đến cái tôi. Cái tôi cá nhân không có địa vị trong văn học và xã hội. Trong nền văn chương lịch triều, tính cách phi ngã ngự trị hầu hết các tác phẩm văn học Việt Nam. Thảng hoặc, có thể bắt gặp ở một vài nghệ sĩ lớn nét riêng, độc đáo, cũng có người đã tự xưng danh Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ song đó là những trường hợp ngoại lệ, rất hiếm hoi và cũng chỉ ở một số sáng tác mà thôi… Bắt đầu sang thế kỷ XX, nhất là từ trào lưu văn học lãng mạn, dưới ảnh hưởng của văn hóa phương Tây, cái tôi cá nhân bắt đầu được giải phóng và có nhu cầu khẳng định mạnh mẽ. Trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã nhắc tới hiện tượng này “Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này quan niệm cá nhân”. Do đó, đặc trưng bao trùm, quan trọng nhất của chủ nghĩa lãng mạn là đã thể hiện, “khẳng định cái tôi như một bản lĩnh tích cực trong cuộc sống, như một chủ thể sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật. Lần đầu tiên trong văn học Việt Nam có một cái tôi cá thể hóa…” Phan Cự Đệ. Cái tôi này nhìn cuộc đời bằng con mắt của chính nó, miêu tả thế giới bằng sự cảm nhận của chính nó chứ không làm điều đó nhân danh một tư tưởng, một quy tắc nào. Có lẽ do vậy, cũng là lần đầu tiên trong văn học, người ta được chứng kiến một sự bứt phá ngoạn mục của văn học Việt Nam, chỉ trong vòng mười lăm năm ngắn ngủi, văn học lãng mạn Việt Nam đã tạo ra một khu vườn trăm hoa đua nở với sự xuất hiện của hàng loạt tên tuổi thuộc nhiều phong cách, trong cả thơ lẫn văn xuôi. Cũng chỉ trong chỉ khoảng hơn một thập niên, văn học Việt Nam nhảy vọt từ tình trạng âấu trĩ sang phát triển, không thua kém gì văn học phương Tây. Chính sự giải phóng cái tôi của chủ thể sáng tạo đã tạo ra phong trào Thơ mới với hàng trăm tác giả, tác phẩm mà sự tổng hợp của Hoài Thanh trong “Thi nhân Việt Nam” mới chỉ mang ý nghĩa điển hình. Nhưng giá trị không chỉ dừng lại ở số lượng, quan trọng hơn là ở chất lượng, ở sự kết tinh của những cây bút có phong cách, có tài năng. Hoài Thanh phát hiện và khẳng định điều này thật tinh tế và tuyệt vời chính xác “Tôi quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ có một thời đại phong phú như thời đại này. Chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tráng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu” “Thi nhân Việt Nam”. Cũng nhờ sự giải phóng chủ thể sáng tạo, văn xuôi cũng có nhiều khởi sắc so với trước. Nếu như trong suốt mười thế kỷ văn học trung đại, mới chỉ có lác đác vài ba tác phẩm văn xuôi còn lưu lại tên tuổi, đầu thế kỷ XX cũng mới xuất hiện một số cây bút thì giai đoạn 1930-1945, riêng trào lưu lãng mạn chưa kể văn học hiện thực đã có những phong cách văn xuôi có giá trị đó là một Nhất Linh đau khổ, dằn vặt trên con đường đi tìm lý tưởng và hạnh phúc, tinh tế trong việc diễn tả cảm xúc và diễn biến tâm lý; một Khái Hưng sôi nổi yêu đời, duyên dáng, vui vẻ lạc quan một cách dễ dãi với những ảo tưởng lãng mạn và ngây thơ; một Thạch Lam vừa mơ mộng lãng mạn vừa hiện thực, giàu tình cảm nhân đạo, có biệt tài miêu tả những cảm giác tinh tế và những màu sắc, hương vị, tâm hồn dân tộc; một Nguyễn Tuân với cái tôi vừa kênh kiệu, khinh bạc, gồ ghề, lãng tử đi lù đù, ngang bướng giữa cuộc đời xem đó như một vũ khí chống lại cái xã hội kim tiền ô trọc vừa tôn thờ, chắt chiu cái đẹp trong cuộc sống hàng ngày, trong ngôn ngữ và truyền thống dân tộc… Tuy cùng thuộc trào lưu lãng mạn, nhưng khi nghiên cứu đặc trưng của trào lưu lãng mạn Việt Nam vẫn phải thừa nhận sự khác biệt giữa thơ lãng mạn và văn xuôi lãng mạn.
chuyên đề văn học lãng mạn việt nam