3- Kinh tế chính trị học . 4- Khoa học - kỹ thuật . III- Vai trò của C.Mác và Ph.Ăng-ghen . 1- C.Mác và Ph.Ăng-ghen ngay từ thời niên thiếu đã là những nhà nhân đạo chủ nghĩa . 2- Sự chuyển biến từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường CNCS của C.Mác và Ph.Ăng-ghen dạy học gắn với thực tiễn thông qua sự kết hợp giữa lí thuyết và thực hành. đảm bảo tính phù hợp với trình độ. đảm bảo tính phù hợp với trình độ. Nhận thức khoa học tự nhiên, tìm hiểu tự nhiên, vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Hiểu biết về khoa học 2.1. Ngành khoa học sinh học. Một trong những chuyên ngành đầu tiên cần kể đến trong lĩnh vực khoa học tự nhiên đó chính là ngành khoa học sinh học. Chuyên ngành này chuyên nghiên cứu về nguồn gốc, đời sống và sự phát triển của các sinh vật từ các chức năng các phân Sách Giáo Khoa Tự Nhiên Và Xã Hội Lớp 2 được biên soạn theo các chủ điểm, nội dung từng chủ đề hướng cho các em tìm hiểu nhận thức mọi sự vật hiện tượng, sự việc trong cuộc sống. Các nội dung này được thể hiện thực tế bằng các đoạn video, hình ảnh giúp học sinh nhận biết được các hiện tượng, sự việc chính xác nhất Nội dung sách: Con người, sức khỏe Khí tượng, Khoa học và Công nghệ biển, Tài nguyên và Môi trường nước HƯỚNG DẪN NỘP HỌC PHÍ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN (Thời hạn nộp: hết ngày 18/9/2022) Mạng xã hội. Fanpage Trường ĐHKHTN. Fanpage Tư vấn tuyển sinh. Vay Tiền Trả Góp Theo Tháng Chỉ Cần Cmnd. 7 điểm khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiênHiện nay, khoa học tự nhiên và xã hội, được phân biệt chủ yếu theo đối tượng nghiên cứu, được tích hợp vào các ngành khác nhau, chẳng hạn như tâmNội DungKhoa học và các phân nhánh của nóSự khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên1. Đối tượng nghiên cứu2. Lịch sử hình thành và phát triển3. Cơ sở lý thuyết4. Phương pháp nghiên cứu5. Mức độ chủ quan6. Tính tổng quát7. Quan điểm của nhà khoa họcHiện nay, khoa học tự nhiên và xã hội, được phân biệt chủ yếu theo đối tượng nghiên cứu, được tích hợp vào các ngành khác nhau, chẳng hạn như tâm lý học hoặc khoa học môi trường. Điều này chủ yếu là do tính ưu việt của các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học tự nhiên đã được xã hội áp đang xem Khoa học tự nhiên và khoa học xã hộiTuy nhiên, hai khía cạnh khoa học này được phân biệt bởi một số khía cạnh rất quan trọng, hoặc ít nhất đó là cách nó ban đầu. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ mô tả 7 sự khác biệt chính giữa khoa học tự nhiên và xã hội; Trong mọi trường hợp, cần phải lưu ý rằng không thể khái quát những nhận định này cho tất cả các biểu hiện khoa liên quan "5 điểm khác biệt giữa khoa học và công nghệ"Khoa học được định nghĩa là tập hợp của các hoạt động có hệ thống nhằm thu thập và sắp xếp kiến ​​thức về các loại hiện tượng khác nhau để giải thích và dự đoán các khía cạnh của thực tế. Chúng ta nói đến khoa học tự nhiên khi đối tượng nghiên cứu là các hiện tượng tự nhiên và khoa học xã hội nếu phân tích hoạt động của con lý, được coi là khoa học tự nhiên cơ bản, chủ yếu dựa vào toán học; tuy nhiên, sau này là một khoa học chính thức. Các ngành khoa học tự nhiên đặc biệt nổi bật khác là hóa học, địa chất, hải dương học, thiên văn học, khí tượng học và sinh học, lần lượt bao gồm y học, động vật học hoặc thực vật khác, trong số các ngành khoa học xã hội, chúng ta tìm thấy các ngành như lịch sử, kinh tế, nhân chủng học, khảo cổ học, xã hội học, địa lý, giáo dục, luật, nhân khẩu học, ngôn ngữ học, khoa học chính trị hoặc truyền giới giữa khoa học xã hội và tự nhiên nó mất dần với tần suất lớn trong nhiều lĩnh vực; Một ví dụ điển hình về điều này là tâm lý học, trong đó một truyền thống triết học-nhân văn và một truyền thống khác gần gũi hơn với sinh học cùng tồn tại. Xét cho cùng, phương pháp khoa học là giống nhau bất kể nó được áp dụng cho loại hiện tượng này hay loại hiện tượng khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiênChúng tôi sẽ mô tả bên dưới 7 điểm khác biệt quan trọng nhất giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, ít nhất là từ định nghĩa cổ điển của nó; Trong những thập kỷ gần đây, tiến bộ khoa học ủng hộ sự tích hợp của các ngành khác nhau, do đó ưu tiên lựa chọn các lĩnh vực kiến ​​thức khác nhau dựa trên mục tiêu của mỗi nghiên thêm Các Công Thức Cách Tính Chu Vi Hình Tam Giác Thường, Vuông, Cân, Đều1. Đối tượng nghiên cứuTrong khi khoa học tự nhiên giải quyết các hiện tượng vật lý và tự nhiên, khoa học xã hội giải quyết các hành vi của con người. Như vậy, kinh tế học, chính trị học hay tâm lý học xã hội dùng để chỉ sản phẩm hoạt động của các nhóm xã hội; thay vào đó, hóa học, thiên văn học và khoa học thần kinh phân tích các khía cạnh hữu hình hơn của thực thể bạn quan tâm "15 loại năng lượng chúng là gì?"2. Lịch sử hình thành và phát triểnSự ra đời của khoa học xã hội thường được đồng nhất với sự Khai sáng, diễn ra vào thế kỷ 17 và 18, nhưng sự hợp nhất của nó đã không diễn ra cho đến thế kỷ 19 và 20. Ngược lại, khoa học tự nhiên lâu đời hơn nhiều loài người đã nghiên cứu các lực lượng của tự nhiên từ buổi đầu của lịch sử Cơ sở lý thuyếtKhoa học tự nhiên dựa nhiều hơn khoa học xã hội vào các khoa học chính thức, chủ yếu là toán học, để cấu trúc thực tế một cách chặt chẽ. Trong khoa học xã hội, chủ nghĩa thực chứng phản ánh một xu hướng tương tự, mặc dù xu hướng diễn giải cũng có liên quan, điều này cố gắng cung cấp một ý nghĩa cụ thể cho các hiện tượng được nghiên Phương pháp nghiên cứuNhiều phương pháp nghiên cứu phổ biến nhất trong khoa học hiện nay đến từ khoa học tự nhiên; theo nghĩa này, toán học và phương pháp thực nghiệm là rất quan trọng. Mặc dù các ngành khoa học xã hội đã áp dụng các công cụ này, họ cũng ưu tiên quan sát, khảo sát hoặc nghiên cứu trường hợp vì tính phức tạp của thực tế xã Mức độ chủ quanKhoa học xã hội đã bị chỉ trích vì bị cáo buộc là thiếu chặt chẽ liên quan đến việc sử dụng phương pháp khoa học để phân tích các sự kiện trừu tượng. Trong trường hợp khoa học tự nhiên, mức độ khách quan rõ ràng thường cao hơn vì chúng nghiên cứu các hiện tượng vật lý và quan sát được; Tuy nhiên, mọi nhiệm vụ khoa học làm giảm thực tế theo một cách nào Tính tổng quátCho rằng khoa học tự nhiên cố gắng hạn chế vai trò của tính chủ quan, tính khái quát của kết quả nghiên cứu của họ lớn hơn so với trường hợp của khoa học xã hội, trong đó thường không thể tránh khỏi việc sử dụng các cấu trúc giả định không thể chứng minh một cách khách quan và không thể lặp lại. hiện tượng được phân thêm Xem Trò Chơi Con Mực Trực Tuyến, Trò Chơi Con Mực7. Quan điểm của nhà khoa họcCác nhà khoa học xã hội không bao giờ có thể hoàn toàn quên được hiện tượng mà họ nghiên cứu, vì họ tham gia tích cực vào thực tế xã hội. Tuy nhiên, từ khoa học tự nhiên, khả thi hơn là chấp nhận một quan điểm bên ngoài; do đó, chuyên gia sinh lý học thần kinh nghiên cứu hệ thống thần kinh làm như vậy từ bên ngoài, mặc dù niềm tin của anh ta ảnh hưởng đến nghiên cứu. Khoa học xã hội vs Khoa học tự nhiên Khoa học xã hội và Khoa học tự nhiên là hai môn học khác nhau về vấn đề của chúng. Khoa học xã hội là bất kỳ nghiên cứu nào tập trung vào xã hội và sự phát triển của nó. Nói tóm lại, nó đề cập đến bất kỳ chủ đề nào không thuộc về khoa học tự nhiên. Do đó, khoa học xã hội bao gồm nhiều môn học như nhân chủng học, giáo dục, kinh tế, quan hệ quốc tế, khoa học chính trị, lịch sử, địa lý, tâm lý học, luật pháp, tội phạm học, và tương tự. Nhân chủng học là một khoa học xã hội liên quan đến lịch sử của con người. Sinh học và nhân văn của con người cũng được bao phủ bởi thuật ngữ nhân học. Kinh tế học là một khoa học xã hội nghiên cứu các lý thuyết và vấn đề khác nhau liên quan đến sản xuất hàng hóa, phân phối hàng hóa và tất nhiên là tiêu thụ của cải. Địa lý vật lý và địa lý của con người được bao phủ bởi thuật ngữ địa lý vốn là một ngành khoa học xã hội khác. Lịch sử là một khoa học xã hội khám phá những sự kiện trong quá khứ của con người. Mặt khác, khoa học tự nhiên là các ngành khoa học đi sâu vào chi tiết của thế giới tự nhiên bằng cách sử dụng các phương pháp khoa học. Điều quan trọng cần biết là khoa học tự nhiên sử dụng các phương pháp khoa học để đi sâu vào chi tiết liên quan đến hành vi tự nhiên và điều kiện tự nhiên. Đây là sự khác biệt chính giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Các khoa học như logic, toán học và thống kê được gọi là khoa học chính thức và chúng cũng khác với khoa học tự nhiên. Thiên văn học, Sinh học, Khoa học Trái đất, Vật lý, Hóa học, Hải dương học, Khoa học Vật liệu, Khoa học Trái đất và Khoa học Khí quyển là một số ngành khoa học tự nhiên nổi tiếng. Thật thú vị khi lưu ý rằng các môn học như khí tượng học, thủy văn, địa vật lý và địa chất cũng thuộc khoa học tự nhiên vì tất cả chúng đều liên quan đến các phương pháp khoa học trong phương pháp của họ. Đây là những khác biệt giữa hai thuật ngữ quan trọng, đó là khoa học xã hội và khoa học tự nhiên. Hiện nay các môn học được Bộ Giáo dục chia làm 2 ban chính Khối Khoa học xã hội & Khối Khoa học tự nhiên. Môn tự nhiên được dạy ở cấp trung học cơ sở, những môn này tạo tiền đề giúp học sinh phát triển năng lực, bổ sung kiến thức, kĩ năng nền tảng và phương pháp học tập để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống thực tiễn. Vậy Khối tự nhiên gồm những môn nào? Học khối này tương lai làm nghề gì? Câu trả lời có trong bài viết sau đây nhé! Khối tự nhiên bao gồm các môn khoa học nghiên cứu hướng đến mục đích nhận thức, mô tả, giải thích và dự đoán về các hiện tượng và quy luật tự nhiên, dựa trên những tài liệu đã được kiểm chứng. Hay nói cách khác khoa học tự nhiên là môn học được xây dựng và phát triển trên nền tảng của Hóa Học, Vật lý, Sinh học và Khoa học Trái Đất,… Đồng thời, với sự tiến bộ của nhiều ngành khoa học khác liên quan như Tin học, Toán học,… cũng góp phần giúp cho Khoa học tự nhiên ngày càng phát triển. Với Khoa học tự nhiên thường nghiên cứu những đối tượng như hiện tượng, sự vật, quá trình, quy luật của thế giới tự nhiên. Vai trò của môn khoa học tự nhiên Khoa học tự nhiên có vai trò rất quan trọng đối với học sinh lẫn giáo viên, trong đó thực nghiệm và tìm hiểu là hình thức dạy học đặc trưng của môn học này. Từ đó, năng lực khám phá, tìm tòi được phát triển một cách rõ rệt. Ngoài ra, những kiến thức của khoa học tự nhiên rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, đây cũng là điều kiện để học sinh có thể tìm tòi, học hỏi, trải nghiệm, nâng cao nhận thức cũng như khả năng vận dụng kiến thức khoa học vào đời sống. Khoa học tự nhiên ngày càng phát triển, do đó để đáp ứng nhu cầu của xã hội đòi hỏi giáo dục phổ thông luôn cập nhật những thành tựu mới, những tiến bộ của ngành công nghệ và kỹ thuật. Có thể nói, Khoa học tự nhiên là môn học vô cùng quan trọng đối với học sinh, bởi nó là nền tảng trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh cấp trung học cơ sở, đồng thời nó còn góp phần cung cấp nguồn nhân lực trẻ cho đất nước. Cấu trúc của môn khoa học tự nhiên Môn Khoa học tự nhiên được dạy ở trung học cơ sở là môn học bắt buộc, giúp học sinh phát triển các phẩm chất, năng lực, kỹ năng nền tảng và kiến thức để làm cơ sở tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào đời sống. Chương trình môn Khoa học Tự nhiên của lớp 6, 7, 8, 9 có 3 phần tương ứng với kiến thức thuộc lĩnh vực Vật lý, Sinh học, Hoá học như sau Lớp 6 Hoá học 20% – Vật lý 32% – Sinh học 38% Lớp 7 Hoá học 24% – Vật lý 28% – Sinh học 38% Lớp 8 Hoá học 31% – Vật lý 28% – Sinh học 31% Lớp 9 Hoá học 31% – Vật lý 30% – Sinh học 29% Khối khoa học tự nhiên gồm những môn gì? Theo Bộ giáo dục thì khối khoa học tự nhiên gồm những môn mang tính chất suy luận về các hiện tượng tự nhiên dựa trên những thực nghiệm được kiểm chứng, đó là các môn như Vật lý, Sinh học, Hóa học. Môn KHTN hình thành và phát triển ở học sinh năng lực KHTN, bao gồm các thành phần nhận thức khoa học tự nhiên; tìm hiểu tự nhiên; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Môn KHTN góp phần giúp học sinh trở thành những công dân có trách nhiệm, cần cù, văn hoá, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới. Khối khoa học tự nhiên gồm những ngành nào? Nhóm ngành Kinh tế – Ngân hàng – Luật Nhóm ngành này đều có thể xét tuyển qua tổ hợp các môn tự nhiên. Một số ngành tiêu biểu như Kế toán, Kinh tế, Marketing, Quản trị Kinh doanh, Tài chính Ngân hàng. Nhóm ngành Nghệ thuật Nhóm ngành không có môn tự nhiên nào dùng để tuyển sinh vì không phải thuộc nhóm ngành khoa học, kỹ thuật. Nhóm ngành Truyền thông – Báo chí Không có tổ hợp tự nhiên xét tuyển ngành này mà nó thường sẽ được kết hợp giữa 2 môn xã hội và một môn tự nhiên. Một số ngành điển hình như Quan hệ Quốc tế, Ngôn ngữ Anh, Quan hệ Công chúng, Ngôn ngữ học, Tâm lý học, Báo chí. Nhóm ngành Văn hóa – Ngoại ngữ Đa phần các ngành của nhóm này không phải là tổ hợp tự nhiên mà chủ yếu là khối D và khối C. Nhóm các trường Kỹ thuật Nhóm ngành này hoàn toàn xét tuyển 100% tổ hợp tự nhiên. Một số ngành tiêu biểu như Công nghệ cơ khí ô tô, cơ khí, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và thực phẩm. Nhóm ngành Giao thông Nhóm ngành này có nhiều tổ hợp xét tuyển các môn tự nhiên. Nhóm ngành này được đào tạo tại những trường như Đại học giao thông vận tải,… Nhóm ngành Xây dựng Nhóm ngành này có nhiều tổ hợp xét tuyển các môn tự nhiên và thêm một môn năng khiếu. Nhóm ngành này được đào tạo tại những Trường Đại học Xây dựng và nhiều trường đại học liên quan khác. Nhóm ngành Kiến trúc Nhóm ngành này, học sinh ngoài xét tuyển những môn tự nhiên còn phải thi thêm các môn năng khiếu như Vẽ. Nhóm ngành Khoa học tự nhiên – Kỹ thuật công nghệ Nhóm ngành này chắc chắn xét tuyển những môn tự nhiên. Những nhóm ngành tiêu biểu như Kỹ thuật phần mềm, Kỹ thuật máy tính, Khoa học máy tính, Mạng máy tính & Truyền thông. Nhóm ngành Cơ bản – Sư phạm – Sư phạm Kỹ thuật Đối với nhóm ngành Sư phạm, những môn tự nhiên nào thì sẽ xét tuyển những môn đó ví dụ như Sư phạm Hóa học, Sự phạm Tin học, Toán ứng dụng, Sư phạm Toán học. Nhóm ngành Y dược – Nông lâm – Thú y Đa số các ngành Y dược hay Thú y sẽ xét tuyển các tổ hợp môn khối B. Tuy nhiên, với nhóm ngành Nông lâm thì có thể xét tuyển qua các tổ hợp môn khối A. Một số ngành tiêu biểu như Chăn nuôi, Công nghệ sinh học, Bảo vệ thực vật, Quản lý tài nguyên & môi trường, Sư phạm. Nhóm ngành các Trường Đại học địa phương Các trường đại học địa phương như Trường Đại học Tây Nguyên, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Đà Lạt,… đều có các ngành đào tạo tổ hợp các môn tự nhiên, và các môn khối A. Có nên học khối khoa học tự nhiên hay không? Dù khối khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội thì mỗi ban đều có tính chất, đặc điểm riêng. Vì vậy mỗi học sinh cần xác định mình thích gì, thế mạnh môn gì, khả năng cũng như tương lai bạn muốn trở thành người như thế nào. Nếu bạn muốn học các môn tự nhiên thì bạn phải đảm bảo mình có những yếu tố sau Tư duy tốt Mang tính lý trí Thích những môn tính toán, kỹ thuật. Thích phân tích, lên kế hoạch, chiến lược. Còn nếu bạn theo khối xã hội bạn cũng cần có những yếu tố Thiên về tình cảm, cảm xúc. Thích những môn như ngôn ngữ, lịch sử, văn chương, vẽ tranh,… Bạn có tính nghệ thuật. Xem thêm Tốt nghiệp trung học phổ thông là gì? Gồm những môn nào? Bao nhiêu điểm là đậu? Mục đích học tập của học sinh là gì? Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xác định mục đích học tập Phương tiện dạy học là gì? Vai trò và nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học Dù bạn học khối khoa học tự nhiên hay xã hội thì cũng có thể thành công nếu bạn nhận ra sở thích, đam mê và mong muốn mình trở thành người như thế nào! Chúc bạn thành công. 7 điểm khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiênHiện nay, khoa học tự nhiên và xã hội, được phân biệt chủ yếu theo đối tượng nghiên cứu, được tích hợp vào các ngành khác nhau, chẳng hạn như tâmNội dung chính Show 7 điểm khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiênNội DungKhoa học và các phân nhánh của nóSự khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên1. Đối tượng nghiên cứu2. Lịch sử hình thành và phát triển3. Cơ sở lý thuyết4. Phương pháp nghiên cứu5. Mức độ chủ quan6. Tính tổng quát7. Quan điểm của nhà khoa họcVideo liên quan Nội DungKhoa học và các phân nhánh của nóSự khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên1. Đối tượng nghiên cứu2. Lịch sử hình thành và phát triển3. Cơ sở lý thuyết4. Phương pháp nghiên cứu5. Mức độ chủ quan6. Tính tổng quát7. Quan điểm của nhà khoa họcHiện nay, khoa học tự nhiên và xã hội, được phân biệt chủ yếu theo đối tượng nghiên cứu, được tích hợp vào các ngành khác nhau, chẳng hạn như tâm lý học hoặc khoa học môi trường. Điều này chủ yếu là do tính ưu việt của các phương pháp nghiên cứu đặc trưng của khoa học tự nhiên đã được xã hội áp nhiên, hai khía cạnh khoa học này được phân biệt bởi một số khía cạnh rất quan trọng, hoặc ít nhất đó là cách nó ban đầu. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ mô tả 7 sự khác biệt chính giữa khoa học tự nhiên và xã hội; Trong mọi trường hợp, cần phải lưu ý rằng không thể khái quát những nhận định này cho tất cả các biểu hiện khoa liên quan "5 điểm khác biệt giữa khoa học và công nghệ"Khoa học và các phân nhánh của nóKhoa học được định nghĩa là tập hợp của các hoạt động có hệ thống nhằm thu thập và sắp xếp kiến ​​thức về các loại hiện tượng khác nhau để giải thích và dự đoán các khía cạnh của thực tế. Chúng ta nói đến khoa học tự nhiên khi đối tượng nghiên cứu là các hiện tượng tự nhiên và khoa học xã hội nếu phân tích hoạt động của con lý, được coi là khoa học tự nhiên cơ bản, chủ yếu dựa vào toán học; tuy nhiên, sau này là một khoa học chính thức. Các ngành khoa học tự nhiên đặc biệt nổi bật khác là hóa học, địa chất, hải dương học, thiên văn học, khí tượng học và sinh học, lần lượt bao gồm y học, động vật học hoặc thực vật khác, trong số các ngành khoa học xã hội, chúng ta tìm thấy các ngành như lịch sử, kinh tế, nhân chủng học, khảo cổ học, xã hội học, địa lý, giáo dục, luật, nhân khẩu học, ngôn ngữ học, khoa học chính trị hoặc truyền giới giữa khoa học xã hội và tự nhiên nó mất dần với tần suất lớn trong nhiều lĩnh vực; Một ví dụ điển hình về điều này là tâm lý học, trong đó một truyền thống triết học-nhân văn và một truyền thống khác gần gũi hơn với sinh học cùng tồn tại. Xét cho cùng, phương pháp khoa học là giống nhau bất kể nó được áp dụng cho loại hiện tượng này hay loại hiện tượng viết liên quan "Tâm lý học có phải là khoa học không?"Sự khác biệt giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiênChúng tôi sẽ mô tả bên dưới 7 điểm khác biệt quan trọng nhất giữa khoa học xã hội và khoa học tự nhiên, ít nhất là từ định nghĩa cổ điển của nó; Trong những thập kỷ gần đây, tiến bộ khoa học ủng hộ sự tích hợp của các ngành khác nhau, do đó ưu tiên lựa chọn các lĩnh vực kiến ​​thức khác nhau dựa trên mục tiêu của mỗi nghiên Đối tượng nghiên cứuTrong khi khoa học tự nhiên giải quyết các hiện tượng vật lý và tự nhiên, khoa học xã hội giải quyết các hành vi của con người. Như vậy, kinh tế học, chính trị học hay tâm lý học xã hội dùng để chỉ sản phẩm hoạt động của các nhóm xã hội; thay vào đó, hóa học, thiên văn học và khoa học thần kinh phân tích các khía cạnh hữu hình hơn của thực thể bạn quan tâm "15 loại năng lượng chúng là gì?"2. Lịch sử hình thành và phát triểnSự ra đời của khoa học xã hội thường được đồng nhất với sự Khai sáng, diễn ra vào thế kỷ 17 và 18, nhưng sự hợp nhất của nó đã không diễn ra cho đến thế kỷ 19 và 20. Ngược lại, khoa học tự nhiên lâu đời hơn nhiều loài người đã nghiên cứu các lực lượng của tự nhiên từ buổi đầu của lịch sử Cơ sở lý thuyếtKhoa học tự nhiên dựa nhiều hơn khoa học xã hội vào các khoa học chính thức, chủ yếu là toán học, để cấu trúc thực tế một cách chặt chẽ. Trong khoa học xã hội, chủ nghĩa thực chứng phản ánh một xu hướng tương tự, mặc dù xu hướng diễn giải cũng có liên quan, điều này cố gắng cung cấp một ý nghĩa cụ thể cho các hiện tượng được nghiên Phương pháp nghiên cứuNhiều phương pháp nghiên cứu phổ biến nhất trong khoa học hiện nay đến từ khoa học tự nhiên; theo nghĩa này, toán học và phương pháp thực nghiệm là rất quan trọng. Mặc dù các ngành khoa học xã hội đã áp dụng các công cụ này, họ cũng ưu tiên quan sát, khảo sát hoặc nghiên cứu trường hợp vì tính phức tạp của thực tế xã Mức độ chủ quanKhoa học xã hội đã bị chỉ trích vì bị cáo buộc là thiếu chặt chẽ liên quan đến việc sử dụng phương pháp khoa học để phân tích các sự kiện trừu tượng. Trong trường hợp khoa học tự nhiên, mức độ khách quan rõ ràng thường cao hơn vì chúng nghiên cứu các hiện tượng vật lý và quan sát được; Tuy nhiên, mọi nhiệm vụ khoa học làm giảm thực tế theo một cách nào Tính tổng quátCho rằng khoa học tự nhiên cố gắng hạn chế vai trò của tính chủ quan, tính khái quát của kết quả nghiên cứu của họ lớn hơn so với trường hợp của khoa học xã hội, trong đó thường không thể tránh khỏi việc sử dụng các cấu trúc giả định không thể chứng minh một cách khách quan và không thể lặp lại. hiện tượng được phân Quan điểm của nhà khoa họcCác nhà khoa học xã hội không bao giờ có thể hoàn toàn quên được hiện tượng mà họ nghiên cứu, vì họ tham gia tích cực vào thực tế xã hội. Tuy nhiên, từ khoa học tự nhiên, khả thi hơn là chấp nhận một quan điểm bên ngoài; do đó, chuyên gia sinh lý học thần kinh nghiên cứu hệ thống thần kinh làm như vậy từ bên ngoài, mặc dù niềm tin của anh ta ảnh hưởng đến nghiên cứu. Phần 1 đã điểm qua hành trình phát triển của nền khoa học của nhân loại, dưới góc nhìn về khám phá thời gian và không gian. Phần 2 này sẽ là những phát kiến và những tiến bộ trong việc phát triển khoa học tự nhiên và khoa học xã trong những điều kiện tiên quyết để phát triển khoa học tự nhiên là việc con người phải thấy được cái mà họ cần nghiên cứu, từ những thứ khổng lồ như thiên thể và thiên hà đến những thứ nhỏ bé như vi trùng và phân suốt thời cổ và trung đại, con người đã luôn tin vào thuyết địa tâm, tức là các hành tinh xoay quanh trái đất. Điều này đã ăn sâu trong tâm trí nhân loại trong cả ngàn năm, mặc cho một số nhà quan sát chuyên nghiệp đã phát hiện ra những bất thường trong chuyển động của các thiên thể mà người không chuyên sẽ khó mà thấy được. Những điều bất thường đó thường sẽ bị bỏ qua bằng cách đắp vào một số niềm tin tôn Copernicus xuất hiện. Ông tin vào toán học, giác quan, quan sát và đo đạc nhiều hơn là ông tin vào những điều dạy trong sách thánh. Ông đã cho ra những ý tưởng về thuyết nhật tâm, nhưng nó được phổ biến vào thời của ông, mà sau này mới được Galileo quan sát, kiểm chứng và tái khẳng sao thì việc quan sát vũ trụ bằng mắt thường cũng chỉ có một giới hạn cụ thể. Mắt người khó có thể thấy được những ngôi sao rất nhỏ hoặc độ sáng rất yếu, vì vậy việc kính viễn vọng được phát minh đã mở rộng tầm mắt con người hơn bao giờ tưởng về kính viễn vọng được nhen nhóm khi những thợ thuỷ tinh tình cờ phát hiện ra sự khúc xạ của ánh sáng khi đi qua kính. Qua nhiều thử nghiệm, họ làm ra những dạng thấu kính đầu tiên. Những bộ kính viễn vọng đầu tiên là sự kết hợp giữa một thấu kính lồi và một thấu kính lõm, phóng to hình ảnh nhìn được gấp nhiều người đã biết Galileo là một nhà thiên văn nổi tiếng, với việc ủng hộ thuyết nhật tâm của Copernicus. Nhưng ít người biết rằng trong hành trình đi đến thành quả đó, ông là người cải tiến công nghệ làm kính viễn vọng. Từ những mẫu kính đầu tiên mà ông có được với độ phóng đại tầm 3x, ông đã liên tục cải tiến để tăng độ phóng đại lên tới 30x. Với việc có công cụ mạnh mẽ trong tay, ông đã thực hiện nhiều quan sát thiên văn để rồi tái khẳng định thuyết nhật tâm và tự kiếm cho mình chỗ chết trong phiên tòa dị giáo. Dù sao thì trái đất vẫn quay, và thuyết nhật tâm ngoài việc sinh ra một lời giải ăn nhập với những quan sát thiên văn, còn thay đổi cách mà con người nhìn nhận vị trí của họ trong vũ trong tay kính viễn vọng để nhìn tới những thứ khổng lồ xa xăm, chẳng có lý gì mà con người không muốn nhìn được những thứ tí hon quanh mình. Sử dụng công nghệ tương tự, kính hiển vi ra đời. Cũng giống như với kính viễn vọng, các thế hệ thợ kính và nhà khoa học đã dần cải tiến kính hiển vi để nhìn thấy những thứ nhỏ hơn. Kính hiển vi đã giúp con người tiến sâu vào thế giới vi trùng và thế giới phân tử, thúc đẩy hoá học, y học và sinh học phát triển mạnh mẽ thời cận và hiện đại. Việc y học phát triển nhờ nhận thức về vi trùng đã tiêu diệt được nhiều bệnh phổ biến như kiết lị, sốt rét, sởi, tăng tỉ lệ người sống sót đến tuổi trưởng thành của con người. Điều này đã làm bùng nổ dân số thế học và giải phẫu học là những ngành khoa học lâu đời, song hành cùng với lịch sử loài người. Chừng nào còn có người ốm, chừng đó còn có y thời cổ đại, thuyết thể dịch của Hippocrates và Galen thống trị nền y học. Về cơ bản, thuyết thể dịch tin rằng cơ thể con người được cấu thành bởi bốn chất cơ bản, gọi là thể dịch. Cân bằng của bốn chất này là điều kiện cơ bản để con người khỏe mạnh. Bệnh tật là hậu quả của tình trạng mất cân bằng của ít nhất một trong bốn chất. Bốn thể dịch là máu, mật đen, mật vàng và niêm dịch - tương ứng với bốn nguyên tố cơ bản cấu thành vũ trụ là không khí, đất, lửa và bấy giờ, tôn giáo tín ngưỡng nghiêm cấm việc mổ xẻ cơ thể người chết. Vì vậy, con người sở hữu tương đối ít kiến thức về những thứ bên trong cơ thể. Kiến thức y dược được con người sưu tầm qua kinh nghiệm trong quá trình thử và sai với các bài thuốc và phương pháp dân gian, còn kiến thức giải phẫu thì gặp cản trở của quan niệm xã hội nên Galen chỉ dừng lại ở mức giải phẫu khỉ, gây ra nhiều sự hiểu lầm về giải phẫu cơ thể tận khoảng năm 1300 thì cơ thể người mới được phép mổ xẻ phục vụ dạy học giải phẫu. Mặc dù tri thức về giải phẫu dần được mở rộng và hệ thống hoá, nhưng những tay bác sĩ lại không muốn đảm nhiệm việc mổ xẻ cơ thể người. Những tay đồ tể, thợ cạo hoặc người phẫu thuật sẽ thực hiện việc trực tiếp động chạm vào thi thể, còn bác sĩ sẽ đứng từ xa và đưa ra chỉ dẫn bằng một cái gậy dài. Việc được phép mổ xẻ cơ thể người thật đã đem lại nhiều kiến thức đúng đắn về cơ thể người hơn là dùng nội tạng khỉ để tưởng tượng ra nội tạng chúng phục hưng, Leonardo Da Vinci đã nổi lên như một nhà giải phẫu học tiên phong lừng danh. Ông quan niệm rằng các bộ phận cơ thể cần được quan sát từ mọi hướng để có thể có được góc nhìn khách quan và kiến thức đầy đủ nhất. Ông chủ trương mổ xẻ có hệ thống và lặp đi lặp lại"Ta sẽ cần ba lần mổ xẻ thì mới có được một hiểu biết đầy đủ về tĩnh mạch và động mạch, trong khi huỷ bỏ mọi thứ còn lại..." - Leonardo Da VinciSau thế hệ của Leonardo, Andreas Vesalius đã nối tiếp những quan sát và thực hành trong giải phẫu. Ông tận dụng mọi cơ hội, dù hợp pháp hay phi pháp, để có được các thi thể hay một phần của thi thể để phục vụ việc nghiên cứu. Học trò của ông thường thấy ông đi lại với một cái cẳng tay hay một cái bắp đùi lủng lẳng trong túi áo. Và để đáp lại cống hiến của ông, trong vòng nửa thế kỷ, giải phẫu học theo Vesalius đã thịnh hành khắp các trường đại học châu Âu. Điều quan trọng mà ông truyền lại là tầm quan trọng của việc nghi ngờ những kiến thức đi trước, cố gắng kiểm chứng chúng qua thực nghiệm và đối chiếu lặp đi lặp Galen, tim có tác dụng như một lò nung giữ nhiệt khắp cơ thể. Nhưng bác sĩ William Harvey đã phản biện điều này. Harvey đã tập trung nghiên cứu mạch máu người, và phát hiện ra một số cơ chế đóng mở van của các mạch máu. Rồi ông đi đến những kết luận như tim đóng vai trò như một máy bơm máu đi nuôi các bộ phận cơ thể, với các mạch máu đóng vai trò đường dẫn và van khóa, điều hoà máu đi đến toàn cơ thể người. Và đó là cách mà nền y học biết đến khái niệm hệ tuần dù việc nền khoa học vẫn tiến lên từng ngày, nhưng hệ thống chia sẻ kiến thức và kết nối giữa các nhà khoa học vẫn chưa có một giải pháp tốt. Nhiều nhà khoa học vẫn hoạt động độc lập hoặc bó hẹp trong một cộng đồng tri thức nhỏ trong quốc gia của họ. Đầu thế kỷ 17, Martin Mersenne xuất hiện như một người trung gian trong giới khoa học. Ông làm quen, kết nối và giữ liên lạc qua thư với nhiều nhà khoa học ở các quốc gia khác nhau. Thư từ của ông lan đến tận London, Syria, Tunisia, Constantinople, tập hợp được những ý niệm và phát minh mới nhất của các nhà khoa học. Ông du nhập sách tiếng Anh vào Pháp và cung cấp sách tiếng Pháp cho các nhà khoa học Anh. Ông đã lập ra mạng lưới quen biết giữa các nhà khoa học và tổ chức các hội nghị khoa học nhằm khuyến khích việc chia sẻ kiến thức trong cộng đồng khoa học. Tiếp nối những ý tưởng của Mersenne là Henry Oldenburg. Nhờ khả năng vượt trội về giao tiếp và ngoại ngữ, ông trở thành một nhà ngoại giao khoa học. Oldenburg chu du qua nhiều quốc gia, tạo dựng nhiều mối quan hệ với các nhà khoa học nổi tiếng. Khi trở về Anh, ông góp sức lập ra Hội hoàng gia, một cộng đồng với mục tiêu gắn kết các nhà khoa học và các ý tưởng khoa học trên thế giới. Các nhà khoa học gửi thư từ và sách vở cho ông, để rồi ông sẽ tổng hợp, phân loại, chuyển tiếp và trả lời thư từ của dà việc làm cầu nối trung gian này cho ra đời việc xuất bản tạp chí khoa học, tổng hợp công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học từ nhiều nơi rải rác trên châu Âu nói riêng và thế giới nói chung và mang đến công chúng. Đến bây giờ, các tạp chí khoa học vẫn là một nguồn đáng tin cậy và danh giá mà giới khoa học hướng thống nhất về quy tắc cho nền khoa học thế giới, một hệ thống đo lường được đưa lên làm chuẩn mực là một điều cần thiết. Thế giới lúc đó có quá nhiều hệ đo lường cho những thứ như trọng lượng và độ dài, làm cho việc thống nhất về con số trong nghiên cứu khoa học giữa các quốc gia vô cùng khó khăn. Con người nói những ngôn ngữ khác nhau đã là một cản trở, và việc có nhiều hệ đo lường cũng rắc rối không kém hàng thế kỷ thử nghiệm những hệ đo lường khác nhau, giới khoa học dần ngả về một vài hệ như là hệ thập phân trong việc đếm, hệ gram trong trọng lượng, hệ mét trong độ dài. Thống nhất quy tắc đo lường là một chuyện, tăng tính chính xác cho các dụng cụ đo lường cũng chẳng kém phần quan trọng. Thị trường dụng cụ khoa học dần mở rộng, với nhiều kỹ sư liên tục nghiên cứu, phát minh và cải tiến dụng cụ quan sát, đo lường và thí nghiệm, mở rộng bộ công cụ của nền khoa danh vọng và tiền bạc kiếm được từ các phát minh khoa học, giới khoa học xuất hiện nhu cầu về bảo vệ bản quyền. Các nhà khoa học luôn muốn đảm bảo rằng phát minh của họ được công nhận là xuất hiện đầu tiên, sách của họ được xuất bản đến công chúng, và ý tưởng của họ sẽ không bị những đồng nghiệp cướp mất trước khi họ kịp bố cáo thiên hạ. Vì thế, các cơ chế để bảo vệ quyền tác giả và công nhận người đầu tiên khám phá ra kiến thức mới đã được các viện hàn lâm và các hội khoa học lớn dần đưa vào thực tiễn, bảo vệ và tăng động lực sáng tạo cho các nhà khoa khối lượng kiến thức ở khắp các ngành ngày càng mở rộng, việc kiến thức bị phân mảnh, rời rạc, thiếu sự thống nhất và hệ thống hoá là một cản trở lớn khi các nhà khoa học cần truy cập, tìm kiếm, phân loại và bổ sung vào kho trí thức nhân loại. Và ý tưởng về những bộ bách khoa toàn thư ra đời. Ví dụ điển hình như ngành sinh vật học, từ thời Hy Lạp cổ đại đến tận thời phục hưng, các thầy thuốc đã ghi chép lại nhiều loại cây cối và động vật nhưng không theo một quy tắc phổ quát nào cả. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền có một cách gọi một loại sinh vật khác nhau. Carolus Linnaeus là người tiên phong trong việc phân loại sinh vật một cách có hệ thống, chia động vật và thực vật thành các lớp, bộ, chi, loài. Từ đó mà có câu nói"Deus creavit, Linnaeus disposuit" Chúa tạo ra, Linnaeus phân loại. Với nền tảng hiểu biết từ các cơ sở dữ liệu sinh vật đồ sộ được tạo nền tảng bởi Linnaeus cộng với kinh nghiệm và quan sát từ rất nhiều chuyến thám hiểm các vùng đất xa xôi, Darwin đã nghiên cứu và cho ra đời thuyết tiến hoá, một trong những thuyết quan trọng nhất trong lịch sử sinh lịch sử, con người đã có nhiều phương pháp lưu trữ kiến thức. Thời cổ đại, cách duy nhất để lưu trữ kiến thức là nhớ và truyền miệng. Do phần lớn con người thời cổ và trung đại không biết chữ, nên đó là lí do vì sao có các câu châm ngôn, các bài hát, bài thơ, tượng, hình ảnh giúp cô đọng, vần điệu hoá kiến thức, làm con người dễ nhớ và dễ truyền đạt lại cho người khác. Thời đó, thường thì chỉ những nhà bác học, quan lại, vua chúa, thầy tu và các gia đình thượng lưu mới biết trung cổ, những người hiếm hoi biết chữ trong cộng đồng là các tu sĩ. Họ dành phần lớn thời gian để cầu nguyện, đọc sách, chép sách và giảng đạo. Giới giáo sĩ liên tục khuyến khích việc chép sách nhất là Kinh thánh, xúc tác cho việc những tu viện đã trở thành những thư viện trong cộng độ chậm rãi, tốn nhân công, dễ sai sót của việc chép sách đã thúc đẩy nhu cầu tìm ra một giải pháp tốt hơn trong việc nhân bản sách. Và ngành in ấn đã ra đời. Gutenberg đã đúc rút kinh nghiệm từ những thế hệ thợ in trước để cho ra một giải pháp in ấn nổi bật về tính hữu dụng, tính hiệu quả và giá thành cạnh tranh. Với sự bùng nổ của ngành in ấn, các ngôn ngữ địa phương dần nổi lên trong đại chúng và giới khoa học. Trước đó, phần lớn các tác phẩm khoa học và văn học được in bằng tiếng Latin. Giờ đây, mỗi quốc gia lại xuất bản các tác phẩm khoa học và văn học bằng tiếng bản ngữ. Khoa học trở nên đại chúng hơn, khi mà phần lớn người dân các nước sẽ không phải bỏ công học thêm tiếng Latin để có thể đọc hiểu các cuốn sách trên thị trường. Điều này một mặt giúp tri thức sách vở tiến gần hơn đến đại chúng, nhưng lại chia cách tri thức giữa các quốc gia qua một bức tường ngôn ngữ. Sách trở nên rẻ hơn rất nhiều, thúc đẩy người dân ở các tầng lớp lao động và các trường đại học mua sách với số lượng lớn. Các nhà cầm quyền thúc đẩy việc xây dựng các thư viện công cộng ở các đơn vị hành việc sử dụng sách viết bằng tiếng bản ngữ tại các quốc gia phần nào cản trở sự đồng nhất trong giao tiếp của cộng đồng khoa học, họ tìm lại về phương pháp sử dụng một ngôn ngữ duy nhất làm chuẩn cho khoa học. Họ cần một tiếng Latin thứ 2. Và qua nhiều thử nghiệm và vận động, tiếng Anh đã dần dần trở thành ngôn ngữ tiêu chuẩn cho khoa học thế thế hệ con người được sinh ra và chết đi là những câu chuyện, những kinh nghiệm và những sự kiện độc nhất. Nhân loại vẫn luôn nhìn về quá khứ để rút ra những bài học, làm tiền đề cho những ý tưởng mới được ra đời. Từ nhu cầu cơ bản đó mà khái niệm sử học ra đời. Từ sử học, nhiều ngành khoa học khác đã nở thời kỳ sơ khai của các nền văn minh, lịch sử tồn tại ở dạng truyền thuyết hay thần thoại, được truyền miệng trong cộng đồng. Nói ngắn gọn thì lịch sử thời đó giống huyền sử hơn. Các sự kiện thường mang tính ước lệ về mốc thời gian, các nhân vật thì mang nhiều màu sắc thần thánh và hư cấu, các câu chuyện thường kể về nguồn gốc dân tộc hoặc tín người Hy Lạp, từ “lịch sử”, hay "historia" có nghĩa là “biết bằng tìm hiểu”. Bắt đầu bằng những người ngâm thơ sử thi kể về các vị thần và các vị anh hùng, sử gia Hy Lạp dần biến chuyển thành những người viết sử qua văn xuôi. Herodotus, một sử gia Hy Lạp, cảm thấy thích thú với văn hoá những sắc dân hàng xóm của Hy Lạp. Ông chu du khắp các nước như Ai Cập, Syria, Phoenicia, Babylon, tiểu Á. Qua những chuyến đi này, ông tạo ra tác phẩm Historiai, ghi chép về chiến tranh Ba Tư - Hy Lạp, về huyền sử, lịch sử và phong tục các chủng tộc mà ông đã gặp và tiếp xúc. Tác phẩm này được coi là khởi đầu của nền sử học phương Trung Hoa thế kỷ 2 TCN, nhà Hán đang trong công cuộc thống nhất toàn cõi Trung Hoa. Các tiểu quốc dần bị thu phục, và sử liệu của họ là nguồn tư liệu đầy ắp cho nhà Hán. Tuy vậy, mỗi nước lại dùng một bảng niên đại riêng, khiến cho việc đặt tất cả các sự kiện lên cùng một dòng thời gian là việc vô cùng khó khăn. Thời thế tạo anh hùng, một quan chép sử là Tư Mã Thiên đã tập hợp sử liệu của hàng trăm tiểu quốc thành một bộ sử xoay quanh bảng niên đại của nhà Chu. Ông còn phát minh ra các chuẩn mực việc chép sử chia sử liệu thành các đề tài nhỏ hơn như thân thế quân vương, các sự kiện chính trị kinh tế xã hội, tiểu sử những người nổi bật về đức hạnh. Việc này đặt ra quy tắc viết sử của Trung Hoa cho đến hơn 2000 năm sau. Nhưng việc chép sử của Trung Hoa cũng phần nào bị quản lý bởi các bậc cầm quyền, vậy nên nội dung đã có phần nói giảm nói tránh và ít tính phê phán với quá Trung Cổ, lịch sử phương Tây được gắn liền với Kito giáo. Cái nhìn Kito về quá khứ bao bọc các tài liệu xưa trong màn sương của các biểu tượng và nhân vật mang nhiều màu sắc thần thánh. Các sách Phúc Âm nói về tiểu sử và những câu chuyện đời của Jesus. Các tác phẩm lịch sử thường trích dẫn nhiều nội dung trong kinh Thánh để tấn công ngoại giáo và dị giáo. Lịch sử thời đó đã trở thành ghi chú cho chánh kỳ Phục Hưng là lúc mà một số người bắt đầu nhìn lại quá khứ với con mắt khám phá hơn. Tiên phong của việc tìm hiểu quá khứ dưới sự khách quan là nhà nhân văn học người Ý Francesco Petrarch. Khi không ai tò mò về những phế tích của đế chế La Mã hay Hy Lạp, ông lại dành hàng giờ rong ruổi quanh các phế tích, tìm hiểu những câu chữ khắc trên đá, thu thập những đồng xu cổ, nghiên cứu những thư tịch cổ còn sót đầu trong việc phê bình lịch sử là Lorenzo Valla, một tín đồ của sự thật lịch sử. Bằng vốn kiến thức ngôn ngữ học và sử học uyên thâm cộng với tính cách không thoả hiệp, ông đã phê bình các sách lịch sử của giáo hội, từ các trích bản của các thánh đến tận kinh Tân Ước. Ông đã chứng minh “Hiến tặng của Constantine” là giả mạo dựa trên sự sai lệch về ngôn ngữ Latinh, “Thuật hùng biện” không phải của Cicero, hay “Kinh tin kính” không phải do 12 tông đồ viết. Điều này đủ dọn sẵn cho ông và các tác phẩm của ông chỗ đứng trong toà án dị giáo và vị trí trong danh mục sách cấm của giáo thời Phục Hưng, ngành buôn bán vật liệu xây dựng là một nghề ăn nên làm ra ở châu Âu. Nhiều người khai quật và đập phá các phế tích La Mã đem bán. Đến thời Phục Hưng thì một số nhà cầm quyền đã cho ban hành các luật bảo vệ di tích cổ đại. Việc các di tích được để ý và bảo tồn đã truyền cảm hứng cho những thế hệ các nhà khảo cổ học tiên phong. Các tiêu chuẩn kiến trúc và nghệ thuật La Mã cổ điển đã trở thành trào lưu trong giới thượng lưu, dần dần chiếm thế thượng phong mà trở thành chuẩn mực của cái đẹp trên cả lục địa. Trường phái Tân cổ điển vẫn là một trường phái kiến trúc có tầm ảnh hưởng đến tận ngày kỷ 18 là lúc mà con người đã có một nền tảng tương đối về ngành sử học. Nhu cầu lúc này là phân loại các thời kỳ trong lịch sử nhằm các mục đích tra cứu và nghiên cứu, phần nào đó giống như việc phân loại các loài sinh vật của khoa học tự nhiên. Các sử gia đã tìm ra nhiều cách phân loại lịch sử dựa trên những mốc thời gian và những nhóm sự kiện, ví dụ như phân loại lịch sử nhân loại thành tiền sử, cổ đại, trung đại, phục hưng, cận đại, sự phát triển của sử học, ngày càng nhiều công trình và phát kiến về quá khứ được ra đời. Điều này giúp cho con người có được tập dữ liệu lớn về xã hội loài người trước đây, cách tổ chức xã hội, lịch sử các cuộc xung đột tôn giáo và chính trị, văn hoá của các dân tộc khác nhau. Đây là nền tảng cho các nhà tư tưởng trên con đường thay đổi thế trên những bài học và dữ kiện từ lịch sử, các ngành khoa học như triết học, khoa học chính trị, kinh tế học, tâm lý học, nhân chủng học ra đời. Những cái tên lớn như Voltaire, Adam Smith, Marx, John Locke, Rousseau, Freud đã sản sinh ra những lý thuyết về chính trị như khế ước xã hội, các lý thuyết kinh tế thị trường, lý thuyết về phân tâm học, chủ nghĩa cộng sản. Những lý thuyết này phần nào đó tạo nên những cuộc cách mạng từ nhận thức cá nhân đến hệ thống xã hội, định hình thế giới chúng ta sống ngày học đã luôn là một hành trình không hồi kết. Những phát kiến của ngày hôm nay đều phần nào dựa trên, hoặc là phản bác lại, những ý tưởng của ngày hôm qua. Trong game Civilization V, mốc cuối cùng của cây công nghệ, Future Tech, là một sự lặp đi lặp lại của chính nó công nghệ tương lai là tiền đề cho chính công nghệ tương lai. Tương lai của khoa học là một bí ẩn mà con người cảm thấy đáng dấn thân, đáng chờ đợi, đáng hi vọng và cũng đáng cẩn trọng, vì ai biết được tương lai sẽ ra sao.

khoa học tự nhiên và khoa học xã hội